(Kính tặng chú Tố Hữu)
Và Trần Đăng Khoa đã cùng chú nhìn lại quãng thời gian đầy gian khổ nhưng cũng đầy ánh sáng và tự hào khi được ánh sáng của Đảng chiếu sáng cuộc đời. Lấy ý từ bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, Trần Đăng Khoa đã viết những dòng thật xúc động, chứng tỏ rất am hiểu về cuộc đời của chú:
Chú “Từ ấy” những gian nan
Đường lên Đắc Sút sương tan mặt ghềnh
Nhận được lá thư của anh Minh, Trần Đăng Khoa cảm thấy yêu mến lạ vùng đất mỏ: Ôi miền đất anh đang sống
Nghe sao mà giản dị yêu thương… Những muốn thăm làng thăm mỏ Nếu anh không đạp xe về
Em sẽ lần đường cuốc bộ…
(Nhận thư anh)
Trần Đăng Khoa chưa một lần đến với thủ đô Hà Nội nhưng trong lòng luôn thương nhớ nơi đó. Ngay cả trong giấc mơ, Trần Đăng Khoa cũng thường mơ về Hà Nội xa xôi:
Em nằm lơ mơ ngủ Thấy mình về Thủ đô
Có thể bạn quan tâm!
- Cảm Hứng Từ Hoàn Cảnh Lịch Sử Của Đất Nước
- Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu - ĐH Sư phạm - 5
- Tình Cảm Đối Với Những Miền Quê Trên Đất Nước
- Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu - ĐH Sư phạm - 8
- Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu - ĐH Sư phạm - 9
Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.
Ôi chao, trăng vàng óng Quay tròn... bánh ô tô...
(Trăng tròn)
Trong những vùng đất của Tổ quốc, Trần Đăng Khoa dành một tình cảm đặc biệt cho miền Nam ruột thịt. Điều đó đã được thể hiện qua các bài thơ thơ trong tập Góc sân và khoảng trời. Theo quy luật của tình cảm con người một khi người ta nhắc có nghĩa là người ta vẫn thường nghĩ đến và thấy thương thấy nhớ. Trong ý nghĩ của Trần Đăng Khoa và các bạn lúc nào cũng có hai tiếng miền Nam. Bài Bắt ông Rừng nộp củi, Trần Đăng Khoa đã vẽ ra một hình ảnh thật sinh động: Các em đứng trên đỉnh núi mà ngó khắp bốn bề để rồi cảm thấy “nghe thiêng liêng Tổ quốc”. Từ trên núi em thấy được nơi Nguyễn Trãi làm thơ, nơi Trần Hưng Đạo chiến thắng quân Nam Hán, thấy hình ảnh Bác Hồ làm thơ và vạch đường lối cứu nước. Trần Đăng Khoa cùng các bạn đã đưa cặp mắt nhìn thật xa để được trông thấy miền Nam trong cảnh những phố phường náo động. Náo động vì cuộc sống vẫn diễn ra như chưa bao giờ bị dập tắt theo ý đồ của đế quốc Mĩ.
Trần Đăng Khoa đã rất thích thú khi các chú bộ đội kể chuyện về miền Nam với những chiến công ngày càng nhiều:
Này đây đường phố Sài Gòn
Rực trời ánh lửa phá đồn đêm nao Bao nhiêu xe xích đổ nhào
Bao nhiêu giặc Mĩ chui vào áo quan.
Trong những luc ca hát, tiếng đàn bầu gợi nhớ đến Nam Bộ với những câu hò, điệu lí xàng, xê “đằm thắm khúc ru con Nam Bộ” và làng quê Kinh Bắc với giọng quan họ ân tình “Tươi mát câu dân ca quan họ” (Tiếng đàn bầu và đêm trăng).
Trần Đăng Khoa yêu thương những vùng đất xa xôi, bới vì đó có Bàn chân thầy
giáo:
Bàn chân thầy giáo gửi lại Khe Sanh Hay Tây Ninh, Đồng Tháp
Bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc Cho lẽ sống làm người.
Như đã nói, những miền đất ấy Trần Đăng Khoa chưa một lần được đến. Nhưng, từ
trong sâu thẳm Trần Đăng Khoa lại yêu mến vô cùng. Trước kia, em Trần Đăng Khoa yêu những địa danh đó vì đó là một phần của Tổ quốc thiêng liêng, nơi đó cũng như quê em phải chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh. Giờ đây, Trần Đăng Khoa lại càng thêm yêu vì những nơi đó có bàn chân của thầy giáo từng đi qua và một nơi nào đó có bàn chân của thầy để lại. Bài thơ làm chúng tôi liên tưởng đến mấy câu thơ của Giang Nam:
Xưa yêu quê hương vì có hoa có bướm Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi.
(Quê hương)
Không phải ngẫu nhiên mà cụm từ quê hương - đất nước lại hay đi chung với nhau. Bởi mỗi người đều có một quê hương riêng của mình nhưng tất cả chúng ta đều có chung một quê hương: Việt Nam. Quê hương không thể tách rời đối với đất nước. Vận mệnh của đất nước có mối tương quan với quê hương của mọi người. Vì thế, Trần Đăng Khoa không chỉ viết về làng Điền Trì của mình mà còn viết về đất nước với niềm yêu mến, tự hào. Trần Đăng Khoa đã reo lên niềm tự hào ấy:
Trăng từ đâu… từ đâu… Trăng đi khắp mọi miền Trăng ơi có nơi nào Sáng hơn đất nước em!
(Trăng ơi… từ đâu đến…)
Hỏi để mà tự hào, khẳng định vẻ đẹp đặc biệt của đất nước mình. Câu hỏi thật dễ thương. Không chỉ tự hào về vẻ đẹp đấ nước mà Trần Đăng Khoa còn tự hào về một đất nước anh hùng. Hai cảm hứng đó xuất hiện xuyên suốt trong thơ Trần Đăng Khoa, không chỉ trong tập Góc sân và khoảng trời mà những tập thơ được viết khi đã thành một anh lính biển hay những năm gần đây cũng thế. Trần Đăng Khoa đã nói với bạn bè thế giới rằng:
Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu
Vẫn vui, vẫn hát những câu rộn ràng.
(Gửi bạn Chi – lê)
Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, thế giới rất lo ngại cho Việt Nam về cả vật chất và tinh thần khi phải đối mặt với cuộc chiến không cân sức như thế. Bạn bè thiếu nhi quốc tế hiểu gì về tinhth thần của thiếu nhi Việt Nam? Có biết bao trẻ em Việt Nam trả lời cho câu hỏi ấy nhưng lịch sử đã chọn Trần Đăng Khoa làm người phát ngôn cho cả thế hệ, cả dân tộc.
CHƯƠNG III: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI – MỘT SỐ HÌNH THỨC BIỂU HIỆN NỔI BẬT
1. Giọng điệu
Chúng tôi nghĩ rằng, nghiên cứu giọng thơ của một tác giả không phải là việc đơn giản. Công việc này đòi hỏi nhiều thời gian và khả năng cảm thấu sâu sắc mà không phải ai cũng có được. Trong pham vi của khóa luận, chúng tôi chỉ tìm hiểu một vài nét mà chúng tôi cho là nổi bật trong tập thơ Góc sân và khoảng trời. Đó là giọng thơ hồn nhiên, trong sáng, thiết tha và giọng triết lí, suy tư.
1.1. Hồn nhiên, trong sáng, thiết tha
Trong tập thơ, Trần Đăng Khoa thường xưng hô là “em” khiến cho người đọc như đang lắng nghe lời tâm sự của một chú bé ngoan:
Em thường rải cái nong Ra góc sân ngồi học Những đêm có trăng mọc Em chơi cho đến khuya…
(Cái sân)
Em đi chọc ếch chiều nay
Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu…
(Chọc ếch)
Có lẽ, trong lúc làm thơ, Trần Đăng Khoa tưởng tượng mình đang nói chuyện với người lớn nào đó. Còn khi nói với các con vật, cây cối thì Trần Đăng Khoa xưng “tao” và gọi “mày” một cách thân mật như những người bạn:
Cái đuôi vàng ngoáy tít Cái mũi đen khịt khịt Mày không bắt tay tao Tay tao buồn làm sao
(Sao không về vàng ơi?)
Những lời Trần Đăng Khoa nói thì thầm với trầu mới đáng yêu làm sao:
Trầu ơi, hãy tỉnh lại Mở mắt xanh ra nào Lá nào muốn cho tao Thì mày chìa ra nhé Tay tao hái rất nhẹ
Không làm mày đau đâu Đã dậy chưa hả trầu?...
(Đánh thức trầu)
Chỉ có trẻ thơ mới có giọng điệu như thế. Cả tập thơ mang giọng điệu trong tập thơ hết sức hồn nhiên, trong sáng, mang đậm tính cách trẻ con của tác giả. Bài “Thơ vui” mang giọng thơ hết sức hồn nhiên pha lẫn nghịch ngợm:
…Diêm Vương đi vắng lâu rồi Nghe đâu ăn cỗ Nhà Trời xa xăm… Mải vui chén rượu, cuộc cờ
Quên không mở cửa Phủ cho cháu vào…
Bác Mạnh Sinh chẳng biết nghe tin đâu, tưởng Trần Đăng Khoa đã chết nên gửi câu đối và thơ về nhà chia buồn cùng gia đình Trần Đăng Khoa. Cảm động trước tấm lòng của Bác, Trần Đăng Khoa đã viết bài thơ gửi tặng và cũng báo cho bác Sinh rằng Trần Đăng Khoa vẫn “chưa lặng lẽ qua đời được đâu”. Giọng thơ nghịch ngợm nhưng đầy nghĩa tình. Đọc bài thơ này, có lẽ bác Sinh đã mỉm cười hạnh phúc vì “thần đồng” Trần Đăng Khoa vẫn bình an, vẫn làm thơ hay như bác và mọi người từng biết.
Chiến tranh với sức tàn phá của nó làm cho Trần Đăng Khoa ý thức hơn nhưng không vì thế mà tâm hồn cằn cỗi. Tiếng thơ của Trần Đăng Khoa đã át đi “âm thanh nhơ bẩn” bằng chính sự hồn nhiên, ngây thơ và thanh thản:
Tiếng diều vàng nắng Trời xanh cao hơn Dây diều em cắm Bên bờ hố bom…
(Thả diều)
Bên cạnh hố bom, hiện thân của sự chết chóc, hủy diệt, cánh diều tuổi thơ vẫn bay cao như khát vọng của thế hệ măng non Việt Nam. Âm thanh của tiếng diều làm cho trời như cao hơn, xanh hơn đẹp hơn. Trần Đăng Khoa đã nói với bạn bè trên thế giới rằng:
Chúng tôi đến lóp ngày ngày
Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu
Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng
(Gửi bạn Chi - lê)
Với các con vật xung quanh, Trần Đăng Khoa dành cho chúng một tình cảm yêu mến đặc biệt. Lời thơ trong Nói với con gà mái, Tiếng chim kêu,… hết sức tha thiết. Nhìn vằn máu đỏ trong mắt con gà mái bị mất con, nghe tiếng chim bị thương kêu thảm thiết trong bụi cây, Trần Đăng Khoa cảm thấy lòng mình như có lửa đốt. Chỉ một tiếng chim kêu, một cái nhìn cũng gây cho con người xúc động mãnh liệt. Tại sao giặc Mĩ đã nhẫn tâm sát hại hàng triệu người lại không mảy may thương tiếc?
Bài “Sao không về Vàng ơi?” là tiếng gọi của một em nhỏ bị mất con vật thương yêu thất. Ta cảm nhận trong từng lời thơ là nỗi nhớ nhung da diết, là niềm mong chờ con Vàng quay trở về. Trần Đăng Khoa nhớ từng cử chỉ mừng rỡ của nó mỗi khi Trần Đăng Khoa đi học về:
Đầu tiên mày rối rít
Cái đuôi mừng ngoáy tít Rồi mày lắc cái đầu Khịt khịt mũi, rung râu Rồi mày nhún chân sau
Chân trước chồm, mày bắt…
Trong tập thơ có những bài được viết theo thể thơ lục bát: Mẹ ốm, Tiếng nói, Hạ Long, Quê em,… Những bài này mang giọng hết sức thiết tha, gợi cho người đọc sự cảm động. Mẹ ốm là tâm tình của một đứa con hiếu thảo:
Nắng mưa từ những ngày xưa Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan…
Cả đời đi gió đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi Mẹ vui con có quản gì
Ngâm thơ kể chuyện rồi thì múa ca Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con sắm cả ba vai chèo
Trần Đăng Khoa viết bài thơ này bằng tất cả nhận thức sâu sắc và tình thương mến. Trần Đăng Khoa ý thức sâu sắc những nỗi cơ cực mà mẹ đã chịu đựng qua từ “lặn”. Thử tìm một từ nào khác thay thế thì ý thơ sẽ giảm đi rất nhiều. Bài thơ gây cho người đọc niềm xúc động thực sự bởi những suy nghĩ vừa hồn nhiên vừa sâu sắc và giọng thơ tha thiết, chứa chan tình cảm.
1.2. Giọng triết lí, suy tư
Trần Đăng Khoa là chú bé thiếu nhi làm thơ nhưng thơ Trần Đăng Khoa khi đó không phải chỉ dành riêng cho thiếu nhi đọc. Ở lứa tuổi còn chơi giun, chơi dế, Trần Đăng Khoa đã “già trước tuổi” khi mang vào thơ mình những chuyện chẳng trẻ con chút nào. Tác giả vượt qua rất nhanh những bài thơ tả cảnh và nói tình theo đạo đức quy ước của thời đại mình đang sống để tiến tới các bài thơ sâu sắc tình đời, thấm thía buồn vui của thân phận làm người. Dưới ngòi bút viết chữ còn nguệch ngoạc của chú bé nông thôn ấy đã hiện lên sâu sắc cả thế giới tâm sự của con người - con người Việt Nam, con người nông dân xã Quốc Tuấn quê em và con người tổng quát của cõi người.
Hơn thế, trong bài “Trăng sáng sân nhà em” tâm linh chú bé Trần Đăng Khoa còn có mối giao hòa với vũ trụ. Một đêm trăng sáng trước sân nhà, Trần Đăng Khoa cảm nghe được trong sự im lặng của đất trời, tiếng nói của hư vô biểu hiện bằng ánh sáng soi tỏ
xuống sân nhà. Trần Đăng Khoa biết đánh thức trầu rồi mới hái nó cho bà, cho mẹ. Trần Đăng Khoa xem trầu như một người bạn nên rất nhẹ nhàng, từ tốn. Chú bé biết lắng nghe và biết nói với thiên nhiên. Dường như trong tâm hồn của mỗi thi sĩ đều có con người kì diệu đó, không phân biệt lớn tuổi hay nhỏ tuổi. Thuở bé, Trần Đăng Khoa hay lên Côn Sơn viếng đền thờ Nguyễn Trãi. Không biết thuở ấy Trần Đăng Khoa đã biết gì về thơ Nôm của Nguyễn Trãi chưa nhưng rõ ràng trong hồn, Trần Đăng Khoa tự cảm nhận một mối giao lưu với người xưa – cũng là cảm xúc tâm linh u uẩn. Trong Đêm Côn Sơn khi tiếng chim tiếng suối nhỏ dần và thành mờ ảo thì Trần Đăng Khoa nghe rộn lên tiếng sấm, tiếng chuông, tiếng gió,… lại cả tiếng ngâm thơ nữa. Bài thơ tinh vi trong bút pháp khi tả thật lẫn tả ảo và càng tinh vi lúc từ cái thật mở sang cái ảo, cái lá đa rơi ở cõi người nhưng tiếng động của nó như từ cõi tâm linh:
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
“Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” - Câu thơ bật ra tưởng chừng ngẫu nhiên, chỉ là một thoáng cảm bằng tai, nhưng đọc kỹ cả đoạn, cả bài, không khó khăn nhận ra sự bất chợt ấy bắt đầu từ sự rung động của trái tim, sự bất chợt ấy có vẻ vô thức, nhưng lại là tích góp đã được chuẩn bị của ý thức. Bởi thế câu thơ trở nên có hồn, có thần. Nếu như ta đã từng cảm phục Nguyễn Khuyến không màng công danh trở về hòa hồn mình với làng quê mùa thu yên ả đã cảm nhận được “lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” thì ta sẽ ngạc nhiên hơn khi người thốt ra câu “tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” là một cậu bé mới 10 tuổi đầu. Mọi người kinh ngạc khi đọc những câu thơ u uẩn của chú bé Trần Đăng Khoa. Cái hồn bé thơ ấy như sớm nhận được những tín hiệu mang mang xa rộng và sâu thẳm từ cuộc đời. Nhưng chúng ta thật sự cảm thấy gần gụi khi thấy ở nơi Trần Đăng Khoa những cảm xúc đời sống chân thật, rất thật như vốn có ở mỗi ngày thường mà lại thật sâu nặng chất nhân văn như những chiêm nghiệm của một triết gia cao niên đã chứng kiến nhiều nhiều biến đổi của cuộc đời. Trần Đăng Khoa kể chuyện bé Giang đánh tam cúc với con mèo. Con người bé trông nhà một mình thì phải lấy mèo làm bạn, gạ nó đánh tam cúc với mình vì duy chỉ có nó không phải làm việc đồng áng như những người lớn trong nhà của em. Dường như con mèo biết được điều đó nên nó luôn tỏ ra nũng nịu, vòi vĩnh. Nó cứ phỏng mũi “ngoao ngoao”, khi thua thì dỏng tai, xanh mắt lên không chịu. Thế là con người, dù bé, cũng phải nhường “à thôi mày được”. Cuộc chơi tiếp tục được là nhờ thế. Muốn làm người thì phải thế chứ sao! Loài vật nào chẳng hiếu thắng. Chỉ có con người mới biết nhường nhịn, biết thua để cuộc sống luôn hòa bình, đầy tình thương. Thơ của một em bé mới mười một tuổi đã chứa đựng những triết lí của một triết gia. Đó cũng là một trong những điểm độc đáo của thơ Trần Đăng Khoa so với thơ của các em thiếu nhi cùng tuổi.
Ngoài ra, Trần Đăng Khoa có bài thơ tám câu Cháu làm bà còng ít thấy ai nói tới nhưng đấy là bài thơ thấm đượm buồn vui sâu sắc của kiếp người. Cháu Minh Hà của Trần
Đăng Khoa chân đi còn chưa vững nhưng lại biết nhại dáng đi của người bà cao tuổi, mắt
đã mờ, lưng đã còng:
Tay vắt vẻo lưng cong
Đầu vấp va vấp vểnh
Trò chơi ấy là trò trẻ con ở đâu ở đâu ta cũng thấy bởi trẻ con hay bắt chước lời nói, hành động của người lớn. Ta cười xòa rồi quên đi. Trần Đăng Khoa đã cho ta thấy một chiều sâu nhân thế bằng bốn câu thơ nói bốn phản ứng tâm lí của bốn thứ nhân và vật thế này:
Mèo tròn mắt lạ lùng Chị cười lăn ra đất Mẹ ngồi lặng hồi lâu
Bà đứng trào nước mắt
Chị cười lăn hồn nhiên. Mẹ ngồi lặng nghĩ ngợi mà bà thì trào nước mắt. Tại sao lại khác nhau như thế? Bởi vì nỗi từng trải của mỗi người. Trần Đăng Khoa không nói nhiều, thậm chí là không nói gì mà lại chạm vào nỗi đau nhân thế, mà người đọc cảm nghe bao nỗi dâu bể đoạn trường của thân phận con người. Mỗi chặng đường đời lại thấm thía thêm nỗi sâu nặng của thân phận ấy. Phải đến tuổi già như bà mới biết đời người chỉ dài bằng một trò chơi: Chân vừa đi khuệnh khoạng chưa vững đấy mà giờ đã còng rồi. Đừng vội cho rằng đây là tư tưởng bi quan, ủy mị của Trần Đăng Khoa. Hãy để hồn mình lắng đọng sau những thăng trầm, biến cố trong cuộc sống, chắc hẳn chúng ta cũng có cùng suy nghĩ về cuộc đời như Trần Đăng Khoa vậy.
Bài thơ Mẹ ốm được mọi người đánh giá rất cao. Những bà mẹ khi được các con mình đọc cho nghe không khỏi trào nước mắt vì cảm động. Từng chữ, từng câu trong bài thơ rất tự nhiên, chân thực và cũng rất tinh tế, sâu sắc. Câu thơ “Cả đời đi gió đi sương - Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi” đã khiến cho các nhà thơ lớn tuổi, có kinh nghiệm cũng phải ngả mũ chào. Bởi vì, “nếu họ có được cái tinh tế và nhạy cảm như Trần Đăng Khoa thì họ sẽ làm cho câu thơ già đi”[10;341] hoặc làm cho nó mang vẻ ngô nghê, trẻ con một cách gượng gạo rất khó chịu. Trần Đăng Khoa viết hai dòng này thật cô đọng, không có từ nào là thừa. Từ nào cũng hàm chứa một lượng thông tin cần thiết, chính xác và biểu cảm lạ lùng. Tác giả đã phải vận động cùng lúc hai quá trình trái ngược nhau: Vừa phải trưởng thành, chính chắn hơn để nhìn nhận sự việc lại vừa phải quay về bản chất trẻ con của mình để có được cái nhìn thuần khiết như thế.
Tính triết lí trong thơ của Trần Đăng Khoa không tập trung ở một bài nào mà rải đều khắp, ngay cả trong lúc nghịch ngợm, đùa vui. Tác giả Góc sân và khoảng trời thả cánh diều tuổi thơ bay lên trời cao rồi từ đó mà ngắm nhìn làng mạc, mái trường, dòng sông, cánh đồng,… của quê hương. Cứ ngỡ đây là một bài thơ ca ngợi cảnh quê hương tươi đẹp. Nhưng câu cuối : “Dây diều em cắm - Bên bờ hố bom” (Thả diều) đã làm cho phương hướng cảm nhận của người đọc bị đảo lộn một cách bất ngờ. Đến lúc này thì bài