Về Căn Cứ Pháp Lý Thực Hiện Thanh Tra, Giám Sát Trên Cơ Sở Rủi Ro


các TCTD, nhiều kênh thông tin như trao đổi thông tin với các cơ quan giám sát nước ngoài, với các cơ quan trong hệ thống giám sát tài chính quốc gia, với các đơn vị kiểm toán độc lập sử dụng chưa thường xuyên; quyền giám sát thu thập thông tin của CQTTGSNH, đặc biệt đối với các công ty thuộc tập đoàn tài chính chưa rõ ràng, do đó, cũng làm hạn chế đến tính chính xác, đầy đủ của việc phân tích, đánh giá trong hoạt động giám sát.

- Công cụ định lượng trong hoạt động giám sát mới chủ yếu là hệ thống xếp hạng CAMELS, các công cụ định lượng khác như: Mô hình dự báo tài chính (FPM); Mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động ngân hàng (DEA); Bộ chỉ số giám sát ngân hàng (BSI)... tuy đã được nghiên cứu nhưng ít được sử dụng cũng là một nguyên nhân làm hạn chế khả năng dự báo tính hình tài chính TCTD.

2.3.3. Nguyên nhân

2.3.3.1. Về căn cứ pháp lý thực hiện thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro

Khuôn khổ pháp lý về hoạt động thanh tra, giám sát đã và đang được hoàn thiện. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản hiện hành chưa đồng bộ về nội dung và phương pháp tiếp cận; kết quả đầu ra của giám sát không thực sự là nguồn thông tin đầu vào cho hoạt động thanh tra và ngược lại; hoạt động thanh tra, giám sát chưa là vòng tròn khép kín liên tục bổ trợ cho nhau. Sự bất cập này được thể hiện qua Bảng tóm lược các quy định về thanh tra, giám sát đã và dự kiến ban hành (Phụ lục 6).

Các quy định về hoạt động ngân hàng của TCTD còn chưa đầy đủ, đồng bộ và nhiều bất cập. Nhiều sản phẩm, nghiệp vụ phổ biến theo thông lệ quốc tế nhưng pháp luật Việt Nam chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể, đặc biệt các sản phẩm dịch vụ ngân hàng áp dụng triển khai trên nền tảng công nghệ số. Điều này gây khó khăn cho TCTD và NHNN trong việc nhận dạng, đo lường, quản lý và xử lý rủi ro. Mặt khác, hoạt động của TCTD hiện nay được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật nhưng các văn bản này có nhiều trường hợp chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ, chồng chéo nhau làm cho việc áp dụng của các TCTD chưa thống nhất; hệ thống các văn bản chưa được rà soát để đánh giá mức độ tương thích với các thông lệ quốc tế; căn cứ để thanh tra, giám sát các TCTD, kết luận vi phạm của TCTD không đầy đủ, chặt chẽ, dẫn đến hiệu lực trong công tác thanh tra, giám sát bị hạn chế.

Cho đến nay, NHNN vẫn chưa ban hành được Sổ tay Thanh tra trên cơ sở rủi ro tương thích với Sổ tay giám sát ngân hàng; chưa có quy định kết hợp hiệu quả giữa hoạt động thanh tra và hoạt động giám sát; chưa có cơ chế bảo vệ cơ quan giám sát và các cán bộ cơ quan giám sát cũng như các nguồn lực để giám sát ngân


hàng, do đó, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động thanh tra, giám sát.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 240 trang tài liệu này.

Ngoài ra, chưa có hướng dẫn về quy trình thanh tra, giám sát hợp nhất các TCTD; đặc biệt hiện nay các NHTM có xu hướng hình thành các tập đoàn tài chính trong khi chưa có một khuôn khổ pháp lý về tập đoàn tài chính chỉ rõ cơ quan đầu mối giám sát hợp nhất tập đoàn tài chính và trách nhiệm của các cơ quan phối hợp, chưa đảm bảo nguyên tắc giám sát hợp nhất của Ủy ban Basel.

2.3.3.2. Về mô hình tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngân hàng

Thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng - thực trạng và giải pháp - 17

Sự ra đời của CQTTGSNH năm 2009 và việc thành lập 02 Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng tại TP.Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh năm 2014 đã tạo điều kiện cho công tác thanh tra, giám sát có tính tập trung, thống nhất cao hơn. Tuy nhiên, tính từ khi thành lập CQTTGSNH đến thời điểm 31/12/2018, trong quá trình hoạt động, mô hình CQTTGSNH hiện nay đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, hạn chế, như:

(i) Việc phân cấp, phân quyền trong nội bộ CQTTGSNH có nhiều bất cập:

- Tăng thêm cấp trung gian trong quá trình xử lý công việc: trước đây quy trình xử lý công việc thực hiện trong 03 cấp (Phòng → Vụ → Lãnh đạo NHNN), hiện nay quy trình xử lý công việc của CQTTGSNH thực hiện qua 04 cấp (Phòng → Vụ → Lãnh đạo CQTTGSNH → Lãnh đạo NHNN); đồng thời, số lượng Lãnh đạo có thẩm quyền ký văn bản trình Thống đốc và thừa lệnh Thống đốc giảm (trước đây ở mức 03 cấp thì có khoảng 13-15 lãnh đạo cấp Vụ đủ thẩm quyền ký hiện nay thì chỉ có 3 – 4 Lãnh đạo CQTTGSNH là đủ thẩm quyền) khiến cho thời gian xử lý nhiệm vụ thường xuyên bị kéo dài và tăng áp lực công việc cho cấp Lãnh đạo CQTTGSNH.

- Cách phân cấp, ủy quyền trong công tác thanh tra giữa các cấp lãnh đạo chưa hợp lý, làm giảm nhẹ vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo cấp Vụ trong quá trình tham mưu cho Lãnh đạo CQTTGSNH ra quyết định thanh tra, ban hành kết luận thanh tra (Trưởng đoàn thanh tra báo cáo trực tiếp Người ra quyết định thanh tra – là lãnh đạo CQTTGSNH, không cần thông qua lãnh đạo cấp Vụ).

- Việc phân chia chức năng, nhiệm vụ CQTTGSNH theo chiều ngang với mỗi đơn vị phụ trách một mảng riêng biệt khiến cho khối lượng công việc của các đơn vị phải phụ thuộc vào nhau tăng lên, khi việc phối hợp gặp trở ngại hoặc chậm trễ sẽ ảnh hưởng đến tiến độ xử lý công việc chung của CQTTGSNH; chưa có một bộ phận đầu mối phối hợp, chia sẻ thông tin với các đơn vị ngoài CQTTGSNH (như các Vụ, Cục thuộc NHNN, các đơn vị khác ngoài ngành,...).

(ii) Việc phân định chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị tại CQTTGSNH chưa hợp lý.


- Về chức năng thanh tra:

+ Việc phân chia chức năng, nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành chưa hợp lý giữa trung ương và địa phương, chưa phù hợp với kinh nghiệm quốc tế: Vụ Thanh tra, giám sát các TCTD trong nước thuộc CQTTGSNH chịu trách nhiệm thực hiện thanh tra chuyên ngành đối với NHTM do nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ (gồm 04 ngân hàng), ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã, một số tổ chức khác 100% vốn nhà nước, trong khi đó việc thanh tra chuyên ngành đối với 28 NHTM cổ phần và các chi nhánh của các ngân hàng này (trong đó có một số ngân hàng có quy mô lớn, địa bàn hoạt động tại khắp các tỉnh thành trong cả nước, có tầm quan trọng hệ thống) trên địa bàn được giao cho 02 Cục (Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng TP.Hà Nội và Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng TP.Hồ Chí Minh) và Thanh tra, giám sát NHNN Chi nhánh. Điều này là chưa phù hợp với thông lệ quốc tế khi những ngân hàng có tầm quan trọng hệ thống cần được giám sát bởi cơ quan thanh tra, giám sát ở trung ương.

+ Tại CQTTGSNH chưa có quy định phân công nhiệm vụ cho một bộ phận cụ thể thực hiện việc giám sát, kiểm tra hoạt động Đoàn Thanh tra, thẩm định dự thảo kết luận thanh tra theo quy định hiện hành và chỉ đạo của Thanh tra Chính phủ tại Công văn số 1378/TTCP-TCCB ngày 28/5/2015.

- Về chức năng giám sát an toàn vi mô: Việc tách bạch chức năng thanh tra, giám sát sau thanh tra và giám sát an toàn vi mô tại các đơn vị trung ương làm giảm hiệu quả của hoạt động thanh tra và xử lý sau thanh tra. Việc quy định/phân chia chức năng thanh tra và giám sát vi mô giữa các đơn vị thuộc CQTTGSNH cũng chưa thống nhất (Tại Trung ương, Vụ Thanh tra, giám sát các TCTD trong nước và Vụ Thanh tra, giám sát các TCTD nước ngoài làm công tác thanh tra, Vụ Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng làm công tác giám sát, trong khi tại các địa phương Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng TP.Hà Nội và Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng TP.Hồ Chí Minh vừa có chức năng thanh tra và giám sát).

(iii) Có sự chồng chéo trong phân công công việc giữa NHNN Chi nhánh TP.Hà Nội, NHNN Chi nhánh TP.Hồ Chí Minh và Cục Thanh tra, giám sát trên địa bàn (trong công tác thanh tra, giám sát chuyên ngành, công tác cấp phép, công tác quản lý về tiền tệ và tín dụng, công tác thanh tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng).

Ngoài ra, mô hình tổ chức của CQTTGSNH cũng làm phát sinh thêm sự phối hợp giữa các đơn vị, gây chậm trễ trong xử lý công việc. Trước tháng 12/2014,


NHNN Chi nhánh Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh thực hiện chức năng quản lý trên địa bàn và trực tiếp giải quyết mối quan hệ với Trung ương (Thống đốc NHNN) và chính quyền địa phương. Sau khi thành lập Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng TP.Hà Nội và Cục Thanh tra, giám sát ngân hàng TP.Hồ Chí Minh, một số hoạt động thanh tra, giám sát đối với TCTD của NHNN Chi nhánh TP.Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh đã được chuyển cho 02 Cục này. NHNN Chi nhánh TP.Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh không còn đủ công cụ để thực hiện chức năng quản lý nhà nước tại địa bàn, do đó hạn chế trong phối hợp với chính quyền địa phương. Ngày 10/3/2015, NHNN ban hành Quyết định số 300/QĐ-NHNN về quy chế phối hợp công tác giữa CQTTGSNH và NHNN Chi nhánh TP.Hà Nội, NHNN Chi nhánh TP.Hồ Chí Minh (Quy chế 300). Mặc dù đã có Quy chế 300 nhưng việc phối hợp hoạt động giữa hai cơ quan này vẫn gặp những khó khăn, vướng mắc, làm hạn chế công tác phối hợp với chính quyền địa phương trong xử lý các vấn đề của ngành Ngân hàng trên địa bàn.

2.3.3.3. Về năng lực, trình độ của cán bộ thanh tra, giám sát ngân hàng

Thực tế hiện nay số lượng, quy mô và mức độ phức tạp của các TCTD thuộc đối tượng thanh tra, giám sát trực tiếp của NHNN ngày càng tăng: Các Ngân hàng thương mại nhà nước và một số Ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô và mạng lưới hoạt động rộng khắp cả nước và bắt đầu có hiện diện nước ngoài; hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng về sản phẩm dịch vụ cũng như gia tăng về ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị, điều hành, đã và đang triển khai áp dụng Basel II; Các TCTD nước ngoài hiện diện tại Việt Nam phần lớn là ngân hàng toàn cầu của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển và thực hiện theo các chuẩn mực quản trị rủi ro hiện đại (trong đó có Hiệp ước vốn Basel II và Basel III). Trong khi nguồn lực hạn chế cả về số lượng, chất lượng và kinh nghiệm.

Mặc dù đã có sự cố gắng và cải thiện trong thời gian qua song một bộ phận không nhỏ cán bộ thanh tra, giám sát NHNN còn gặp nhiều hạn chế về năng lực, trình độ và ý thức cầu tiến, đặc biệt trong việc tiếp cận với công nghệ, nghiệp vụ ngân hàng mới và phương pháp thanh tra, giám sát. Bên cạnh lý do xuất phát từ các yếu tố nội tại của một bộ phận cán bộ (như vẫn mang nặng tư duy bảo thủ, ngại sự đổi mới, chưa chịu khó học hỏi...) còn có những lý do khách quan như: (i) Việc áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát tuân thủ không khuyến khích thanh tra viên phát triển khả năng và kinh nghiệm trong việc đánh giá, đo lường và giảm thiểu rủi ro; (ii) Nhiều cán bộ chưa được đào tạo hoặc đào tạo chưa bài bản các kiến thức nghiệp vụ ngân hàng mới và kiến thức về thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro; Cách


thức đào tạo chưa hợp lý, chủ yếu là các khoá đào tạo lý thuyết từ một vài ngày đến một vài tuần, rất ít kiến thức thực hành; Lực lượng thanh tra, giám sát NHNN còn mỏng trong khi đó số lượng TCTD phải thanh tra, giám sát là rất lớn, không ngừng phát triển về loại hình, quy mô, mạng lưới, sản phẩm và mức độ phức tạp, đặc biệt là các TCTD nước ngoài đã có trình độ và công nghệ tiên tiến hỗ trợ cho hoạt động quản trị ngân hàng, áp dụng các chuẩn mực quốc tế (Basel II và Basel III) theo quy định của tập đoàn, trong khi hầu hết cán bộ của NHNN trình độ ngoại ngữ còn hạn chế; Môi trường và khả năng tiếp cận kiến thức, công nghệ hiện đại chưa được cập nhật, bổ sung kịp thời; Đội ngũ chuyên gia công nghệ tại chỗ của cơ quan quản lý vừa thiếu về số lượng, vừa chưa mạnh về chuyên môn, đầu tư vào hạ tầng công nghệ hiện nay vẫn còn khá hạn chế do chi phí phát triển, vận hành cao, nguồn tài chính/ngân sách eo hẹp; (iii) NHNN chưa xây dựng được đội ngũ chuyên gia có đủ năng lực, kinh nghiệm để tiên phong trong việc thanh tra, giám sát từng loại rủi ro chính (rủi ro tín dụng, thị trường, hoạt động, thanh khoản).

Với số lượng, năng lực, trình độ và điều kiện hạ tầng công nghệ như trên thì cán bộ thanh tra đang gặp rất nhiều khó khăn và rủi ro trong việc đáp ứng các yêu cầu về thanh tra, giám sát các TCTD trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.

2.3.3.4. Về hạ tầng cơ sở hỗ trợ cho hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng

Đến nay, nhìn chung, hạ tầng cơ sở chưa đảm bảo để hỗ trợ tích cực, hiệu quả cho hoạt động thanh tra, giám sát các TCTD. Cụ thể:

a) Nguồn cơ sở dữ liệu và hệ thống công nghệ thông tin còn nhiều bất cập:

- Tình trạng dữ liệu quá khứ bị phân mảnh: Các dữ liệu được lưu trữ từ nhiều thời kỳ, bởi nhiều tiêu chuẩn khác nhau trên nhiều nền tảng khác nhau nhưng cũ và lạc hậu, chưa được thu thập, xử lý và tổng hợp một cách đồng bộ, có hệ thống, thông tin quá khứ không đủ độ “sâu” và “rộng”. Điều này ảnh hưởng lớn đến các công cụ phân tích và dự báo để có thể nhận biết được xu hướng, khẩu vị rủi ro của các chỉ số tài chính.

- Chưa có được một cơ chế tổ chức, quản lý dữ liệu hiệu quả đối với các TCTD nên công tác kết nối, thu thập và tổng hợp vẫn còn rất nhiều khó khăn bởi sự khác biệt, sai lệch cũng như chậm trễ, chây ì, đặc biệt khi có nhu cầu cần tổng hợp thông tin tức thời.

- Hệ thống các chỉ tiêu báo cáo thống kê chưa đầy đủ, thiếu những thông tin về quản trị, điều hành của TCTD; một số loại chỉ tiêu báo cáo thống kê còn nhiều nội


dung chưa hợp lý; chất lượng và độ tin cậy của thông tin chưa cao, chưa liên tục trong một thời gian nhất định (thường ít nhất là 05 năm) để phục vụ cho việc phân tích, đánh giá tình hình tổ chức và hoạt động của TCTD.

- Hệ thống công nghệ thông tin còn lạc hậu so với yêu cầu của công tác thanh tra, giám sát theo phương pháp rủi ro, thiếu các phần mềm hỗ trợ trong phân tích, đánh giá, mức độ tự động hóa còn kém. Phương tiện làm việc của Thanh tra ngân hàng (như máy tính xách tay, thiết bị, phần mềm hỗ trợ thanh tra,...) còn thiếu và lạc hậu.

- Chưa có một kho dữ liệu chung cùng cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin và cơ chế phân cấp, phân quyền truy cập thông tin an toàn, hiệu quả trong nội bộ NHNN (giữa CQTTGSNH với Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam (CIC), Vụ Dự báo thống kê, Vụ Ổn định tiền tệ, tài chính...) dẫn đến thông tin dữ liệu chưa đầy đủ, không thống nhất.

b) Chưa có cơ chế phối hợp giữa hoạt động thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa theo một quy trình khép kín, hoạt động thanh tra và giám sát đang tuân theo quy trình và phương pháp khác nhau, do đó gây lãng phí về nguồn lực và giảm tính hiệu quả trong hoạt động thanh tra, giám sát. Cơ sở dữ liệu chung tại CQTTGSNH hiện nay chưa đảm bảo chất lượng và đáp ứng yêu cầu đề ra. Việc xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ còn rất chậm.

c) Lạc hậu trong hội nhập quốc tế, hầu hết các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về thể chế và vận hành hệ thống giám sát tài chính - ngân hàng chưa được thanh tra ngân hàng tuân thủ, vận dụng đầy đủ.

d) Hệ thống kế toán các TCTD còn chưa đầy đủ so với yêu cầu thực tế và chuẩn mực kế toán quốc tế. Trong số 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) do Bộ Tài chính ban hành chưa có chuẩn mực kế toán về ghi nhận và đo lường công cụ tài chính (phù hợp với Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS số 32 và 39) và chuẩn mực về trình bày, công bố công cụ tài chính (phù hợp với Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS 4 và 7), trong khi đó 2 chuẩn mực này đặc biệt quan trọng đối với ngành ngân hàng do công cụ tài chính là một mảng hoạt động chính của các TCTD. Việc còn thiếu những chuẩn mực kế toán liên quan đến công cụ tài chính đã khiến cho NHNN không có căn cứ để hướng dẫn hệ thống TCTD, đặc biệt là các TCTD nước ngoài áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế hoặc một số TCTD trong nước có nhà đầu tư chiến lược nước ngoài phải lập báo cáo tài chính theo IAS. Đồng thời, công tác thanh tra đã gặp nhiều khó khăn trong việc đánh giá sự tuân thủ quy định pháp luật về kế toán của TCTD (việc TCTD áp dụng IAS sẽ tạo ra sự khác biệt so với chuẩn mực kế toán Việt Nam


trong việc ghi nhận, đánh giá các công cụ tài chính phái sinh và giao dịch ngoại hối).

đ) Ngoài những hạn chế về cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin, nguồn nhân lực... việc hạn chế ứng dụng các công cụ định lượng trong hoạt động giám sát từ đó hạn chế khả năng cảnh báo sớm, phòng ngừa rủi ro còn xuất phát từ hạn chế của từng công cụ định lượng mà Việt Nam đang nghiên cứu áp dụng. Có thể kể đến như:

- Hệ thống đánh giá, xếp hạng CAMELS:

+ Việc xác định các trọng số của từng chỉ tiêu/cấu phần theo CAMELS và việc xác định ngưỡng xếp hạng của từng chỉ số phụ thuộc chủ yếu vào phương pháp chuyên gia, chưa có phương pháp chuẩn để xác định trọng số.

+ Kết quả xếp hạng được thực hiện trên cơ sở kết quả tính toán các tiêu chí định lượng tại một thời điểm cụ thể, chưa xem xét đến xu hướng biến động trong một khoảng thời gian nhất định.

+ CAMELS không xem xét đến mối quan hệ giữa các chỉ tiêu/chỉ số xếp hạng và chưa có ma trận rủi ro để đánh giá tổng thể các rủi ro trong mối quan hệ tương tác/phụ thuộc lẫn nhau của các loại rủi ro.

- Bộ chỉ số FSIs/BSIs:

+ Việc phân tích, đánh giá xu hướng biến động của các chỉ số đòi hỏi phải được xem xét trong một khoảng thời gian đủ dài (thông thường khoảng trên 5 năm); do đó, số liệu phải được tích lũy liên tục và có hệ thống xử lý, phân tích dữ liệu lớn. Tuy nhiên, cơ sở dữ liệu tích lũy hiện nay còn ngắn, trong khi đó hạ tầng kỹ thuật (phần cứng, phần mềm) hỗ trợ phân tích còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu.

+ Hiện nay, chưa có mô hình/công cụ phân tích mối quan hệ giữa các chỉ số của một TCTD và giữa một chỉ số của các TCTD khác nhau (như mô hình phân tích mạng lưới), do đó, rất khó có cái nhìn tổng thể về biến động của các chỉ số.

+ Việc xác định ngưỡng cảnh báo còn gặp khó khăn về phương pháp do hiện nay trên thế giới không có phương pháp chuẩn, chủ yếu dựa vào phương pháp phân vị/phương pháp chuyên gia và kinh nghiệm của cán bộ trong qua trình theo dõi, giám sát hoạt động của TCTD. Ngoài ra, việc xác định ngưỡng cảnh báo của các chỉ số không giống nhau giữa các nước do còn phụ thuộc vào mức độ phát triển, đặc điểm riêng có của hệ thống ngân hàng mỗi nước.

- Mô hình dự báo tài chính (FPM):

+ Mô hình phụ thuộc vào dự báo tuyến tính, hầu hết các khoản mục (chỉ tiêu) được dự báo dựa trên các mối quan hệ tuyến tính, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả dự báo của mô hình do tính đơn giản hóa trong ước lượng.


+ Mô hình chưa thể hiện được các mối quan hệ qua lại giữa các loại tài sản khác nhau/nợ phải trả với các yếu tố rủi ro có liên quan. Ví dụ, nếu chất lượng cho vay đối với một lĩnh vực xấu đi, người ta có thể nhận định rằng chất lượng cho vay đối với các lĩnh vực khác có thể bị ảnh hưởng ở vòng thứ hai. Điều này là do thiếu dữ liệu đầu vào để phân tích toàn diện.

+ Mô hình chưa thể hiện cụ thể tác động của môi trường kinh tế vĩ mô tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Bản thân mô hình không thể phản ánh và mô phỏng được mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Đây là một trong những điểm yếu của mô hình, nhất là trong hoạt động giám sát vĩ mô, để khắc phục được điểm yếu này, buộc cán bộ sử dụng mô hình phải áp dụng các mô hình vệ tinh khác bổ trợ cho công tác phân tích.

- Mô hình đánh giá hiệu quả hoạt động ngân hàng (DEA):

+ Cơ chế của mô hình hoạt động dựa trên hàm sản xuất của một tổ chức kinh tế (hàm Cobb-Douglas). Tuy nhiên, hoạt động ngân hàng có những đặc điểm riêng khác với hoạt động của doanh nghiệp sản xuất và chưa được phản ánh đầy đủ như mức độ ứng dụng công nghệ, năng lực quản trị, điều hành, quản trị rủi ro, khẩu vị rủi ro, chiến lược hoạt động,...

+ Mô hình chỉ xét đến các yếu tố tổng tài sản, chi phí hoạt động, vốn chủ sở hữu và chênh lệch thu – chi lũy kế có điều chỉnh mà chưa tính đến các yếu tố khác trong hoạt động của TCTD như khẩu vị rủi ro, mục tiêu chiến lược.

+ Khác với phương pháp hồi quy, phương pháp bao dữ liệu sử dụng trong mô hình DEA không tính toán đến yếu tố sai số hay nhiễu, do đó, trong DEA không tồn tại yếu tố mức ý nghĩa hay độ tin cậy. Đồng thời, điểm hiệu quả DEA là hiệu quả tương đối giữa các TCTD với nhau, do đó nếu 1 TCTD có điểm hiệu quả là 100% cũng không có nghĩa là nó đã hoạt động tối ưu trên thực tế (chỉ tối ưu hơn so với các TCTD khác trong phạm vi phân tích).

- Mô hình Kiểm tra sức chịu đựng (Stress Test):

+ Kết quả đánh giá phụ thuộc vào việc lựa chọn các kịch bản khủng hoảng/căng thẳng giả định (bao gồm tiêu chí lựa chọn, quy mô của các cú sốc). Trong khi đó, tính hợp lý của các kịch bản giả định phụ thuộc vào tính sẵn có của số liệu lịch sử về kinh tế vĩ mô và biến động của các biến đánh giá.

+ Do cấu trúc của mô hình, các giả định được áp dụng đồng nhất đối với tất cả các ngân hàng trong mẫu đánh giá, chưa xem xét đến các đặc điểm riêng có về tình hình hoạt động của từng ngân hàng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/12/2022