Thực Hiện Hợp Lý Các Quy Định Về Bảo Đảm Tiền Vay


dụng trong phòng ngừa rủi ro tín dụng và các chính sách quản trị khác của ngân hàng do trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn, tình hình tài chính của DNNVV có mức độ biến động rất mạnh.

Thứ ba, các NHTM cần chuyên môn hoá quản lý DNNVV theo ngành, lĩnh vực kinh doanh, theo thời hạn của khoản vay và theo các khâu của quy trình tín dụng. Việc cán bộ tín dụng đang phải thực hiện toàn bộ các giai đoạn của quá trình thẩm định khách hàng rất bất lợi đối với ngân hàng bởi lẽ hiện nay các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt các DNNVV, rất đa dạng về ngành nghề và lĩnh vực hoạt động với những thuận lợi, khó khăn riêng và mức độ chính xác và phức tạp của thông tin tài chính vẫn phi tài chính cũng khác nhau. Một cán bộ tín dụng dù có năng lực tới đâu cũng không thể hiểu sâu tất cả các lĩnh vực, ngành nghề. Do đó để công việc đạt hiệu quả cao, phải phân công cán bộ theo hướng chuyên môn hoá.

Thứ tư, các NHTM cần nâng cao khả năng quản lý, giám sát chặt chẽ công tác phân tích, đánh giá, xếp hạng DNNVV. Những tồn tại trong công tác phân tích, đánh giá khách hàng, xếp hạng tín dụng một phần là do cơ chế quản lý giám sát của ngân hàng trong công tác này còn nhiều hạn chế. Hoạt động tín dụng đang ngày càng mở rộng như hiện nay đòi hỏi công tác kiểm tra, kiểm soát đối với công tác đánh giá khách hàng ngày càng cao. Để đáp ứng được đòi hỏi này, các NHTM nên thành lập ở các chi nhánh một bộ phận chuyên kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh nói chung và công tác phân tích, đánh giá, xếp hạng tín dụng trong hoạt động tín dụng nói riêng. Ngoài ra, hàng năm ngân hàng nên tổ chức các buổi tổng kết việc thực hiện công tác phân tích, đánh giá, xếp hạng tín dụng DNNVV trong năm. Từ những buổi tổng kết này, ngân hàng sẽ thấy kết quả đạt được, chỉ ra những vướng mắc, khó khăn trong công tác thực hiện, từ đó rút ra những kinh nghiệm, có biện pháp tiếp tục phát huy những điểm còn hạn chế, khắc phục những nhược điểm còn tồn đọng. Dựa trên cơ sở đó, ngân hàng sẽ xây dựng và hoàn thiện chương trình hoạt động, thực hiện đề ra các mục tiêu đề ra cần hoàn thành trong năm tới cũng như những định hướng lớn cho công tác thẩm định, xếp hạng tín dụng khách hàng DNNVV trong tương lai.

Thứ năm, các NHTM cần cải tiến nội dung xếp hạng tín dụng đối với DNNVV, cụ thể:

(i) Cần đa dạng hóa về phân ngành kinh tế đối với các DNNVV. Việc phân chia chung chung sẽ dẫn đến việc đánh giá và cho điểm các DNNVV trong từng phân ngành chưa chính xác về quy mô, các chỉ tiêu tài chính… Tương ứng với từng


nhóm ngành, ngân hàng phải xây dựng lại bảng các chỉ số tài chính cho từng ngành kinh tế. Trên cơ sở đã thực hiện giải pháp về thu thập thông tin như đã đưa ra ở phần trên, sử dụng phương pháp thống kê bình quân với một số lượng lớn các loại hình DNNVV có quan hệ tín dụng đối với ngân hàng, để tính toán đưa ra các mức chỉ số tài chính phù hợp với thực trạng các doanh nghiệp này. Các bảng chỉ số này cũng phải được linh hoạt thay đổi thường xuyên theo sự biến đổi của môi trường kinh doanh và tình hình phát triển chung của từng ngành.

(ii) Áp dụng những phương pháp phân tích phù hợp. Phương pháp dùng trong phân tích, xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp chủ yếu dựa vào phương pháp so sánh mà ít sử dụng kết hợp các phương pháp xếp hạng khác như phương pháp chuyên gia hay phương pháp thống kê. Việc sử dụng phương pháp phân tích sẽ làm ảnh hưởng đến các khâu trong quá trình phân tích cũng như tính chính xác của kết quả xếp hạng tín dụng. Như đối các chỉ tiêu để đối chiếu, so sánh thường cố định, không thay đổi cho phù hợp với thực tế luôn diễn biến phức tạp và đa dạng. Đối với việc xây dựng bảng chỉ số tài chính thuộc các ngành kinh tế, ngoài việc phải thu thập báo cáo tài chính tích lũy sau nhiều năm và bao trùm các ngành kinh tế như đã có giải pháp ở phần trên thì ngân hàng nên sử dụng phương pháp chủ yếu trong lĩnh vực này đó là phương pháp thống kê và phương pháp chuyên gia. Bảng điểm chuẩn cho các ngành phải được thay đổi định kì hàng năm. Để làm được việc này, hàng năm ngân hàng phải nghiên cứu tình hình thực tế hoạt động của từng ngành kinh tế, nắm rõ những thay đổi, những thuận lợi, khó khăn, những biến động của từng ngành, trên cơ sở đó kết hợp các yếu tố cần thiết khác, xây dựng bảng điểm chuẩn cho ngành kinh tế.

(iii) Xây dựng nội dung xếp hạng tín dụng theo thời hạn các khoản vay. Đối với các khoản tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng cần tập trung sự chú ý vào các chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời của doanh nghiệp và sức chống chọi của họ trước những rủi ro có thể xảy ra. Vì chính các yếu tố đó mới ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của ngân hàng và khả năng hoàn trả vốn vay trong tương lai. Ngược lại, đối với khoản vay ngắn hạn, ngân hàng phải đặt trọng tâm vào các chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán ngắn hạn, tốc độ luân chuyển của hàng tồn kho và các khoản phải thu. Chi tiết hơn, khoản cho vay ngắn hạn với thời hạn ba tháng, ngân hàng cần chú ý đến khả năng thanh toán nhanh... Bên cạnh đó, các khoản cho vay phải được phân biệt theo quy mô vốn vay, nhằm đảm bảo an toàn với mức chi phí phân tích chấp nhận được.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 192 trang tài liệu này.


3.2.2.9.2. Thực hiện hợp lý các quy định về bảo đảm tiền vay

Tăng trưởng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn - 20

Một trong những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của hoạt động tín dụng là sự lựa chọn đối nghịch trong trường hợp khách hàng vay vốn không trả nợ cho ngân hàng. Chính vì lẽ đó mà ngân hàng luôn yêu cầu khách hàng dùng tài sản của họ hoặc của một bên thứ ba làm bảo đảm cho khoản vay, từ đó giảm thiểu những tác động xấu của sự lựa chọn đối nghịch nhờ giảm được tổn thất đối với ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng cam kết. Ngoài ra, việc sử dụng tài sản của khách hàng làm bảo đảm là nguồn thu nợ thứ hai khiến cho khách hàng vay vốn có ý thức hơn trong việc thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản quy định trong hợp đồng tín dụng với ngân hàng. Mặc dù tài sản bảo đảm có ý nghĩa lớn trong hạn chế rủi ro tín dụng, nhưng nếu quá áp đặt tiêu chí tài sản bảo đảm sẽ dẫn tới hệ quả tiêu cực đối với công tác mở rộng tín dụng cũng như bảo đảm chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hiện nay, các DNNVV tại Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn liên quan đến tài sản bảo đảm khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Vì vậy, để khắc phục được vấn đề này, các NHTM cần xem xét một số vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm như sau:

Thứ nhất, đa dạng hóa các hình thức tài sản bảo đảm của doanh nghiệp. Các DNNVV có thể sử dụng các khoản phải thu, hàng tồn kho, các loại máy móc, thiết bị để làm tài sản bảo đảm cho khoản vay được ngân hàng chấp thuận sẽ giúp các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận hơn nguồn vốn ngân hàng. Cần chú ý rằng không phải DNNVV hay chủ doanh nghiệp DNNVV nào cũng sở hữu bất động sản hay sổ tiết kiểm để làm tài sản thế chấp, cầm cố cho khoản vay. Ngoài ra, đa dạng hóa tài sản bảo đảm cũng giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro. Thực tế cho thấy, việc quá phụ thuộc vào tài sản bảo đảm là bất động sản khiến cho bản thân ngân hàng và doanh nghiệp gặp khó khăn khi thị trường bất động sản sụt giảm và thiếu thanh khoản.

Thứ hai, đối với các khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, phương án, dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả thì các ngân hàng có thể xem xét nới nhẹ các tiêu chuẩn về tài sản bảo đảm. Các NHTM cần phải nắm rõ nguyên tắc không phải tài sản bảo đảm cho mọi khoản vay phải lớn hơn giá trị khoản vay. Tùy thuộc vào mức độ rủi ro của khoản vay, tình hình tài chính của khách hàng, lịch sử quan hệ với ngân hàng mà ngân hàng có thể xem xét các tiêu chuẩn về tài sản bảo đảm khác nhau. Thực hiện công tác này sẽ giúp nhiều khách hàng tốt với dự án hiệu quả tiếp cận dễ dàng hơn với ngân hàng và bản thân ngân hàng có thể mở rộng được khách hàng và tín dụng. Ngoài yêu cầu thế chấp tài sản, ngân hàng có thể xem xét


đến các yếu tố khác đang là lợi thế của doanh nghiệp, kể cả tài sản hình thành trong tương lai để thay thế hoặc đưa ra yêu cầu phát triển các sản phẩm ràng buộc nhằm tạo điều kiện để cho doanh nghiệp đang thiếu tài sản thế chấp vẫn có thể vay được vốn nếu có dự án khả thi.

Thứ ba, để tài sản bảo đảm phát huy được đúng ý nghĩa thì cán bộ thẩm định tài sản bảo đảm phải được đào tạo chuyên ngành thẩm định giá. Trong những trường hợp không đủ khả năng định giá tài sản bảo đảm thì cần ký kết hợp đồng với các công ty thực hiện thẩm định giá và để các công ty này gánh chịu toàn bộ trách nhiệm khi kết quả thẩm định giá thiếu chính xác.

3.2.2.9.3. Trích lập quỹ bù đắp rủi ro

Tăng trưởng tín dụng cho DNNVV trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn là điều không đơn giản. Đồng vốn bỏ ra có nguy cơ biến mất là chuyện các NHTM hiểu rõ hơn ai hết. Để hạn chế rủi ro mất vốn có thể xảy ra, tránh các tác động đột biến đến kết quả kinh doanh kỳ kế toán, các ngân hàng phải tính vào chi phí để lập ra các khoản dự phòng rủi ro cho các khoản vay này. Hiện nay, việc trích lập dự phòng rủi ro của các NHTM Việt Nam được thực hiện theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN. Tuy nhiên, việc trích lập dự phòng rủi ro theo quyết định này có một số hạn chế nhất định như:

- Các khoản nợ cùng nhóm thì tỷ lệ dự phòng là như nhau, điều này chưa phản ánh đúng mức độ rủi ro của khoản dự phòng. Ví dụ: Hai khoản nợ cùng thuộc nhóm 2 (những khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày) phải trích lập tỷ lệ dự phòng là 5% nhưng thực tế khoản nợ quá hạn 91 ngày và khoản nợ 179 ngày có mức độ rủi ro là khác nhau;

- Chưa thực hiện các cam kết ngoại bảng, mà đưa hết các cam kết này vào nhóm 1 để tính dự phòng chung, bất kể mức độ rủi ro của các cam kết là khác nhau;

- Thời điểm trích lập dự phòng cho quý IV là dựa vào số dư cuối ngày 30/11, thực tế là trong khoảng thời gian từ ngày 30/11 đến 31/12 tình hình tài chính và hoạt động của khách hàng có thể có sự khác biệt đáng kể. Dẫn đến số dự phòng được trình bày trên báo cáo tài chính quý IV không phản ánh chính xác mức độ rủi ro tín dụng tại thời điểm lập báo cáo.

Vì vậy, ngoài việc phân loại theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, các NHTM nên xem xét trích lập dự phòng các khoản cho vay theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS 39). Theo IAS 39, các khoản cho vay của các NHTM cũng được phân thành 5 nhóm như Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN bao gồm: Nhóm 1 (nợ đủ tiêu


chuẩn), Nhóm 2 (nợ cần chú ý), Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), Nhóm 4 (nợ nghi ngờ), Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn). Tuy nhiên, dự phòng cụ thể được tính cho các khoản nợ thuộc nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5. Dự phòng chung được tính bằng một số phần trăm nhất định trên tổng dư nợ nhóm 1 và nhóm 2. Căn cứ để đánh giá phân loại nợ, IAS 39 sử dụng hai chỉ tiêu tài chính: (i) Tình hình tài chính của khách hàng vay và (ii) Tình hình thanh toán của khách hàng.

Hiện nay, Thông tư số 02/2013/TT-NHNN với những quy định khắt khe hơn trong vấn đề phân loại tài sản, mức độ và phương pháp trích lập cũng như quy định sử dụng khoản dự phòng để xử lý rủi ro dự kiến sẽ được áp dụng từ ngày 01/6/2014 đã khắc phục được những vấn đề kể trên của Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN. Thông tư này được áp dụng kỳ vọng sẽ tạo áp lực cho các ngân hàng tích cực xử lý vấn đề tồn tại như nợ xấu, quản trị rủi ro đồng thời tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng tăng trưởng lành mạnh hơn.

3.2.2.9.4. Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu cho khách hàng trên cơ sở thông tin thu thập từ khách hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa

Cơ cấu vốn được coi là tối ưu khi làm cân bằng giữa lợi nhuận và rủi ro, làm tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp qua đó làm giá trị công ty. Nhà quản trị tài chính doanh nghiệp có thể thiết lập một cơ cấu vốn tối ưu dựa trên cơ sở định tính và định lượng những nhân tố tác động đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp cũng như ảnh hưởng của cơ cấu vốn đến khả năng sinh lời và rủi ro của doanh nghiệp. Cơ cấu vốn tối ưu không chỉ quan trọng đối với DNNVV mà còn có ảnh hưởng sâu sắc tới khả năng tăng trưởng tín dụng và chất lượng tín dụng của ngân hàng. Xác định được một cơ cấu vốn hợp lý cho khách hàng sẽ giúp ngân hàng đưa ra các quyết định về tín dụng một cách hiệu quả nhất như: (i) có nên cấp tín dụng không?; (ii) giá trị khoản tín dụng là bao nhiêu?; (iii) mức lãi suất cho vay là bao nhiêu?; (iv) nên cấp tín dụng ngắn hạn hay dài hạn?… và nhiều thông tin có giá trị khác. Một doanh nghiệp dù có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả đến mấy cũng không thể được chấp thuận hồ sơ tín dụng nếu cơ cấu vốn ở mức quá rủi ro khi tỷ lệ đòn bẩy tài chính ở mức quá cao. Nguyên nhân là cho dù mức sinh lời của phương án cao, tài sản bảo đảm đạt yêu cầu của ngân hàng, khách hàng có lịch sử vay trả tốt… nhưng khi môi trường kinh doanh phát sinh rủi ro hoặc hoạt động kinh doanh gặp phải trục trặc thì doanh nghiệp không thể tạo ra đủ lợi nhuận và dòng tiền để thực hiện cam kết với ngân hàng. Mặc dù cơ cấu vốn không phải là yếu tố quyết định trong quá trình thẩm định và ra phán quyết tín dụng nhưng nó


đóng vai trò thiết yếu để bảo đảm các quyết định tín dụng đưa ra là hợp lý. Để có thể xây dựng được cơ cấu vốn tối ưu cho DNNVV, các NHTM cần thực hiện đồng thời các giải pháp sau:

Thứ nhất, xây dựng cơ sở dữ liệu chuẩn về DNNVV hiện đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng và một cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp tiềm năng đang có quan hệ phi tín dụng hoặc chưa có quan hệ với ngân hàng. Muốn xây dựng được cơ cấu vốn tối hợp lý cho doanh nghiệp đòi hỏi phải có một cơ sở dữ liệu đầy đủ về doanh nghiệp như thông tin pháp lý, thông tin tài chính, thông tin tài sản bảo đảm… Tuy nhiên, các thông tin về DNNVV thường không đầy đủ, mức độ chính xác và tin cậy không cao nên để có thể xây dựng và khai thác hiệu quả nguồn thông tin này đòi hỏi các NHTM dành nhiều nguồn lực con người lẫn tài chính cho công tác này. Cụ thể, các NHTM cần có các giải pháp về thu thập thông tin về DNNVV như:

- Cán bộ ngân hàng phải có ý thức trong việc khai thác và xử lý thông tin từ nhiều nguồn như: hồ sơ khách hàng gửi đến; phỏng vấn chủ doanh nghiệp, ban điều hành, nhân viên…, bạn hàng của doanh nghiệp; xác minh thực tế tại trụ sở của doanh nghiệp về các yếu tố như máy móc thiết bị, nhà xưởng, hàng tồn kho; thông tin từ Internet, báo chí, truyền hình... Tuy nhiên, kết quả đạt được của công việc này phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm, năng lực tư duy, khả năng quan sát, kinh nghiệm của cán bộ ngân hàng phụ trách mảng này.

- Các NHTM phải khai thác triệt để nguồn thông tin do Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) cung cấp. Đây là nơi lưu giữ những thông tin cơ bản, cần thiết về doanh nghiệp, cho phép ngân hàng thu thập thông tin bổ sung, đối chiếu, kiểm tra chéo với thông tin mình đang lưu trữ, đánh giá khái quát doanh nghiệp. Tuy nhiên, các thông tin mang tính chuyên môn cao, thì thường không có sẵn, như thông tin về máy móc, trang thiết bị... Để có thể thu thập những thông tin hữu ích chính xác từ CIC thì ngoài việc các ngân hàng nói riêng phải có thiết bị nối mạng trực tiếp với trung tâm thì các NHTM nói chung cần phải có thái độ tích cực hợp tác với nhau để trao đổi thông tin khách hàng. Có như vậy thì CIC mới trở thành một trung tâm chuyên cung cấp thông tin có uy tín và đáng tin cậy nhằm giảm chi phí cũng như thời gian cho ngân hàng trong quá trình thu thập, khai thác thông tin nhằm đánh giá doanh nghiệp.

- Mỗi ngân hàng có thể lập một phòng ban riêng được trang bị đầy đủ các thiết bị và phương tiện để chuyên thu thập, nghiên cứu, phân tích và dự báo thông tin nhằm đảm bảo yêu cầu: chính xác, nhanh chóng, khách quan và hiệu quả kinh tế.


Các cán bộ làm việc tại phòng có nhiệm vụ chuyên thu thập các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, sau đó thực hiện xử lý và lưu giữ chúng. Những thông tin mà cán bộ thẩm định thu thập trong quá trình thẩm định doanh nghiệp cũng sẽ lưu trữ tại đây. Do vậy, thông tin về DNNVV không những đầy đủ, cập nhật mà còn được lưu giữ một cách khoa học và hợp lý, tạo thuận lợi cho cán bộ tín dụng trong việc tìm kiếm và khai thác. Muốn vậy, các NHTM cần thực hiện các biện pháp: (i) Tích luỹ báo cáo tài chính của các DNNVV đang có quan hệ tín dụng vào file hồ sơ và tập hợp về Hội sở chính (phải kiểm tra, đánh giá lại trước khi nhập dữ liệu vào máy);

(ii) Hợp tác với các ngân hàng khác, thông qua CIC, thông qua Tổng cục thuế thuộc Bộ Tài chính để thu thập thông tin tài chính về các doanh nghiệp; (iii) Đối với thông tin phi tài chính của doanh nghiệp, các đơn vị như phòng giao dịch, chi nhánh, sở giao dịch của ngân hàng cần khẩn trương rà soát hoàn thiện hồ sơ và các thông tin phi tài chính có liên quan của từng doanh nghiệp để nhập vào máy, chuyển về Hội sở chính để tạo thành một kho dữ liệu tập trung.

- Nguồn dữ liệu phục vụ công tác xây dựng cơ cấu vốn cho DNNVV không chỉ dừng lại ở các thông tin vi mô mà còn bao gồm cả dữ liệu vĩ mô về nền kinh tế, ngành, lĩnh vực kinh doanh, thậm chí cả các thông tin về thời tiết, thiên tai, địa lý… Ngân hàng không được phép bỏ sót các thông tin cho dù là nhỏ nhất vì các dữ liệu này có thể góp phần rất lớn vào công tác xây dựng mô hình cơ cấu vốn cho doanh nghiệp do bản thân doanh nghiệp khi hoạt động chịu nhiều ảnh hưởng từ các yếu tố rất đa dạng.

Ngoài thông tin lần đầu thì thường xuyên phải tập hợp thông tin bằng nhiều kênh như: cán bộ trực tiếp cho vay phải theo dõi và thường xuyên cập nhật thông tin thay đổi vào cơ sở dữ liệu, cán bộ phụ trách tập hợp dữ liệu từ các ngân hàng khác hay từ CIC phải cập nhật thông tin nhận được liên tục… để bảo đảm nguồn thông tin, dữ liệu được liền mạch, đầy đủ, chính xác và cập nhật.

Thứ hai, xây dựng mô hình kinh tế lượng đo lường các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu vốn của DNNVV. Đây là công việc đòi hỏi các NHTM đầu tư để xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên sâu về toán kinh tế, đặc biệt là kinh tế lượng ứng dụng. Khi đã hình thành được nhóm cán bộ ngân hàng có năng lực về mô hình kinh tế lượng, ngân hàng cần bảo đảm các vấn đề sau đây được thực hiện triệt để:

(i) Việc xây dựng mô hình kinh tế lượng trước hết đòi hỏi cán bộ ngân hàng phải nắm được cơ sở lý thuyết về cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Hiện nay, cơ sở lý thuyết về cơ cấu vốn của doanh nghiệp rất đa dạng, từ lý thuyết truyền thống đến lý


thuyết hiện đại đang được áp dụng bao gồm thuyết cơ cấu vốn của Modilligani và Miller, thuyết đánh đổi, thuyết quan hệ trung gian, thuyết trật tự phân hạng, thuyết điều chỉnh thị trường, thuyết hệ thống quản lý… Mỗi lý thuyết được xây dựng dựa trên nhiều giả định khác nhau và đưa ra các hàm ý khác nhau về cơ cấu vốn nên khi áp dụng, cán bộ nghiên cứu vấn đề này cần phải xác định rõ là các giả định đưa ra có khả thi hay không và nếu bỏ qua một vài giả định thì sẽ ảnh hưởng thế nào tới kết luận của lý thuyết. Về mặt học thuật, tuy lý thuyết đánh đổi và trật tự phân hạng là hai lý thuyết cạnh tranh với nhau nhưng các chứng cứ thực nghiệm đều ủng hộ cho cả hai lý thuyết này. Các nghiên cứu kiểm định liệu lý thuyết trật tự phân hạng hay lý thuyết đánh đổi cơ cấu vốn có một sự dứ đoán tốt hơn cho cơ cấu vốn doanh nghiệp đều đưa ra kết luận ủng hộ cho cả hai lý thuyết này.

(ii) Trên cơ sở lý thuyết về cơ cấu vốn, cán bộ ngân hàng tiến hành xác định các biến số đại diện cho các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Đây là việc không hề dễ dàng đối với cán bộ nghiên cứu vấn đề này do các biến số đại diện cho đặc điểm của doanh nghiệp có thể được xác định thông qua nhiều dạng khác nhau, nhiều phương pháp khác nhau và có thể liên tục thay đổi qua thời gian hoặc khác nhau giữa các vùng miền, ngành nghề, loại hình doanh nghiệp... Để giải quyết vấn đề này, cán bộ ngân hàng phải tổng hợp các biến số đại diện cho các nhân tố từ các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam về cơ cấu vốn và các nhân tố tác động tới cơ cấu vốn. Đây là nguồn tư liệu hữu ích và sẵn có cho ngân hàng tham khảo. Để xác định biến số nào là phù hợp cần phải tiến hành thử các biến số và so sánh mức độ giải thích của các mô hình với nhau. Đồng thời, cán bộ ngân hàng có thể xây dựng các biến giả tương ứng với các ngành nghề, vùng miền, loại hình công ty, thời điểm… để bảo đảm các biến số phản ánh chính xác nhất đặc điểm của từng nhóm doanh nghiệp.

(iii) Ứng dụng kiến thức kinh tế lượng vào xây dựng mô hình hồi quy tìm các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu vốn. Hiện nay, hầu hết các nghiên cứu về cơ cấu vốn sử dụng phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS) để đo lường mức độ tác động của các biến giải thích tới tỷ lệ đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp. Khi hồi quy mô hình, cán bộ ngân hàng cần phải chú ý việc phát hiện và khắc phục các khuyết tật của mô hình nhằm bảo đảm ý nghĩa của kết quả hồi quy. Các khuyết tật khi hồi quy mô hình thường mắc phải là tự tương quan, đa cộng tuyến hoàn hảo, phần dư không phân phối chuẩn và phương sai của phần dư không đồng nhất. Nếu không được xử lý triệt để các khuyết tật này sẽ khiến kết quả hồi quy không chính

Xem tất cả 192 trang.

Ngày đăng: 06/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí