Về Mối Quan Hệ Giữa Mức Độ Ofdi Và Kết Quả, Hiệu Quả Hoạt Động Kinh Doanh


hàng mẹ trong các công việc như phát triển sản phẩm, công nghệ, quản lý rủi ro, kiểm tra kiểm soát, mô hình tổ chức…

Tuy nhiên có chuyên gia cho rằng lợi thế này không phải là quá lớn và ít nhất trong thời điểm hiện tại thì đây không phải lợi ích chính mang lại. Cụ thể theo chuyên gia được phỏng vấn, có rất nhiều trường hợp quy định pháp luật tại nước ngoài không cho phép dùng chung hệ thống ngân hàng lõi với ngân hàng mẹ ở trong nước. Không những vậy ngay khi được pháp luật cho phép thì những điều khoản ràng buộc với nhà thầu cung cấp hệ thống ngân hàng lõi với ngân hàng mẹ cũng không cho phép mở rộng ra nước ngoài. Thường các điều khoản mở rộng sẽ kèm theo chi phí rất lớn, tương đương với việc mua một hệ thống ngân hàng lõi mới. Tuy nhiên đến quốc gia thứ 10 trở đi, chi phí mua hệ thống ngân hàng lõi mới lại giảm đi. Theo đó với số lượng thị trường nước ngoài của các NHTM Việt nam chỉ lên đến tối đa là 4 thị trường, việc khai thác lợi thế theo quy mô nhờ giảm chi phí khấu hao tài sản cố định là gần như không đạt được.

Mặc dù vậy những lợi thế về chi phí phát triển sản phẩm mới, xây dựng các quy trình, quy định pháp luật lại được những chuyên gia nhắc đến rất nhiều. Một ví dụ được nêu ra khá thú vị khi việc xây dựng toàn hệ thống sản phẩm, quy trình, thế chế của một đơn vị mới đặt tại nước ngoài chỉ gói gọn trong thời gian từ 2-3 tháng triển khai. Điều này thực hiện được nhờ đội ngũ cán bộ rất có kinh nghiệm tại ngân hàng mẹ đưa sang hỗ trợ xây dựng và định kỳ thực hiện chỉnh sửa.

- Cuối cùng là đa dạng hóa thị trường. Đây là lợi ích được nhiều chuyên gia nhắc đến và nhấn mạnh. Điều này khá bất ngờ khi thực hiện phỏng vấn. Trong giả định ban đầu, với điều kiện các ngân hàng Việt nam chỉ đầu tư vào các thị trường kém phát triển và chỉ 2-3 quốc gia lân cận thì những lợi ích thu được từ đa dạng hóa rủi ro, ổn định nguồn thu sẽ rất ít cơ hội có thể thu được. Tuy nhiên các chuyên gia nhấn mạnh đến yếu tố khác. Đó là khi thực hiện OFDI, có hoạt động tại một thị trường khác, các tổ chức định hạng tín nhiệm quốc tế luôn ghi nhận tích cực hơn so với những ngân hàng hoạt động thuần túy trong nước. Việc ghi nhận tích cực này không làm thay đổi kết quả định hạng nhưng lại là một nội dung ghi chú tích cực trong báo cáo định hạng của các tổ chức này. Khi đó chi phí hoặc lãi suất mà ngân hàng bỏ ra để có thể đi vay các định chế tài chính nước ngoài, phát hành trái phiếu trong và ngoài nước, tăng vốn từ nhà đầu tư chiến lược hay nhà đầu tư tài chính nước ngoài sẽ có lợi thế hơn khá nhiều. Dường như những nhận định này chỉ mang tính nguyên lý và không thể hiện rõ nét trong thực tế. Tuy nhiên qua đánh giá của chuyên gia, mức độ tác động là khá đáng kể và không thể bỏ qua.


Tóm lại, 4 lợi ích thu được từ hoạt động OFDI của các ngân hàng được nêu ra khá thuyết phục và củng cố thêm kết quả trong mô hình định lượng. Những nội dung phỏng vấn giúp làm rõ thêm cơ chế tác động tác động của hoạt động OFDI đến lợi ích tổng thể của ngân hàng. Theo đó có thể sắp xếp những tác động từ mạnh đến thấp hơn theo thứ tự như sau: trước hết là lợi ích từ gia tăng ưu thế cạnh tranh, thứ hai là lợi ích giảm chi phí đầu vào và thuận lợi trong tăng vốn, thứ ba là lợi ích theo quy mô. Lợi ích dài hạn được nhấn mạnh rất nhiều. Tuy nhiên trong thời điểm hiện tại chưa được thể hiện.

Trong đó một phát hiện mới đó là việc OFDI giúp giảm lãi suất vay vốn, chi phí tăng vốn từ các đối tác, nhất là đối tác nước ngoài. Đây có lẽ là điểm phù hợp với đặc điểm riêng các ngân hàng Việt Nam hơn khi đang trong giai đoạn cần huy động vốn từ nước ngoài, tăng vốn rất lớn.

Bên cạnh đó ở chiều ngược lại, lợi ích thu được từ quy mô lại không phải quá lớn theo đánh giá của các chuyên gia. Trong khi đó đây lại là một trong những cơ chế chính mang lại lợi ích với các tập đoàn đa quốc gia. Điểm khác biệt này được lý giải bằng phạm vi thị trường OFDI còn hạn chế của các ngân hàng Việt Nam, chưa đủ độ lớn để vượt qua mức đầu tư ban đầu. Chính điều này khiến cho mức đầu tư của các ngân hàng Việt nam ra nước ngoài vẫn được kiểm soát ở mức kiêm tốn. Ở đây xuất hiện một vòng tròn khi chính vì độ rộng của thị trường nước ngoài chưa đủ lớn nên chưa khai thác được lợi thế theo quy mô. Nhưng cũng chính vì vậy nên các ngân hàng giới hạn quy mô đầu tư vào thị trường nước và kiểm soát chặt chẽ. Khi đó việc phát triển tại các thị trường nước ngoài của đơn vị hiện diện là rất khó khăn. Đây có lẽ là vấn đề nút thắt mà các ngân hàng Việt Nam cần xác định rõ định hướng, chính sách trong thời gian tới nếu muốn những lợi ích của hoạt động OFDI rõ nét hơn.

Đối với rủi ro, thách thức

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.

Các chuyên gia nêu ra bốn vấn đề chính gồm:

Thứ nhất, chiến lược theo chân khách hàng của các ngân hàng Việt Nam vừa là điểm tích cực nhưng ngược lại cũng là rủi ro. Khi các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động kinh doanh tại nước ngoài không tốt, không có chiến lược phù hợp, sẽ trở thành gánh nặng cho các ngân hàng tại nước ngoài. Hầu hết các chuyên gia nhấn mạnh rằng hoạt động của các doanh nghiệp Việt nam tại nước ngoài thường kém bài bản, mang tính thời điểm. Những doanh nghiệp phần lớn sẵn sàng vi phạm pháp luật và thực hiện lách luật. Do đó các ngân hàng Việt nam tại thị trường nước ngoài phải sàng lọc, lựa chọn khách hàng rất kỹ lường.

Tác động hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đến hiệu quả hoạt động tại các NHTM Việt Nam - 19


Thứ hai, việc thâm nhập vào thị trường nước ngoài luôn là vấn đề khó khăn do những khác biệt về văn hóa, am hiểu thị trường, pháp luật, điều kiện kinh doanh, tập quán… Do đó nếu không chuẩn bị công tác nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng, có được chiến lược thâm nhập thị trường hiệu quả, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng tại nước ngoài sẽ trở nên khó khăn. Các chuyên gia đều cho rằng, các ngân hàng Việt nam tại nước ngoài phải mất tương đối thời gian để có thể dần nắm bắt và am hiểu phong tục, tập quán trong hoạt động kinh doanh của các công ty tại thị trường nước ngoài.

Bên cạnh đó yếu tố về pháp luật cũng là rào cản rất lớn đối với các ngân hàng Việt nam hoạt động kinh doanh tại thị trường nước ngoài. Hầu hết các thị trường nước ngoài của các ngân hàng Việt Nam hiện nay đều có hệ thống pháp luật đang trong quá trình hoàn thiện. Do đó có rất nhiều điểm, nội dung chưa được quy định dẫn đến việc triển khai hoạt động kinh doanh của các ngân hàng khó khăn hơn. Theo ý kiến của một chuyên gia: “nhiều trường hợp phải vừa làm, vừa xin”. Hay ở giác độ khác, thông thường hệ thống pháp luật tại Việt nam và tại nước ngoài luôn có độ vênh, không đồng nhất. Khi đó quy định tại Việt nam thường theo hướng chặt chẽ hơn. Điều này là bắt buộc đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng Việt nam tại nước ngoài nhưng lại tạo ra bất lợi cho các ngân hàng Việt Nam cạnh tranh với các ngân hàng khác tại thị trường nước ngoài.

Cũng liên quan đến vấn đề về pháp luật, hệ thống pháp luật tại nước ngoài thường khá xa lạ với các ngân hàng Việt Nam. Ví dụ tiêu biểu được nêu ra là trường hợp tại Myanmar theo hệ thống án lệ khác tương đối xa lạ với Việt nam. Do đó khi có vấn đề liên quan đến pháp luật tại thị trường Myanamr, yêu cầu bắt buộc là phải thuê luật sư của nước sở tại. Nhưng chi phí thuê luật sự là “cực đắt” theo ý kiến của chuyên gia. Do đó các ngân hàng Việt Nam thường theo hướng thận trọng trong kinh doanh để tránh những vấn đề pháp lý.

Một ví dụ được nêu ra đó là các văn bản pháp luật Việt nam thường theo hướng thu hút đầu tư hơn là thực hiện OFDI. Bên cạnh đó những quy định về quản lý ngoại hối của Việt nam cũng rất chặt chẽ và nhiều trường hợp không tính đến điều kiện hoạt động của các ngân hàng Việt nam tại nước ngoài. Một ví dụ được chuyên gia nêu ra là quy định trong pháp lệnh ngoại hối khi ngân hàng bảo lãnh cho người nước ngoài thì phải có sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ. Quy định này làm cho các chi nhánh ngân hàng Việt nam tại nước ngoài không thể thực hiện được các sản phẩm bảo lãnh. Hay cũng quy định này cũng không cho phép các chi nhánh ngân hàng Việt nam tại nước ngoài không được sử dụng bảo lãnh của công ty mẹ tại nước ngoài để làm đảm bảo cho vay. Trong khi đó hầu hết công ty tại thị trường đang phát triển như Myanmar, Lào, Campuchia đều sử dụng bảo


lãnh của công ty mẹ. Hoặc ngay cả trường hợp các công ty Việt Nam lập công ty con tại thị trường nước ngoài thì ngân hàng Việt Nam cũng không nhận được bảo lãnh.

Thứ ba, rủi ro tại thị trường nước ngoài là rất lớn. Tiêu biểu có thể kể đến là biến động chính trị tại Myanmar vừa qua. Tuy nhiên rủi ro lớn nhất mà các chuyên gia nhấn mạnh đến là rủi ro trong mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Theo đó các ngân hàng cần phải có chiến lược, khả năng đối phó với rủi ro thực sự hiệu quả.

Thứ tư là vấn đề về quản lý. Với quy mô, mô hình tổ chức phức tạp hơn và thêm cả vấn đề về khoảng cách địa lý, những khác biệt về văn hóa… chi phí cho quản lý sẽ có nguy cơ gia tăng. Từ đó nếu không có khả năng quản lý tốt, đặc biệt là quản lý chi phí và tổ chức mô hình, rất có thể hoạt động đầu tư ra thị trường nước ngoài của các ngân hàng sẽ gặp nhiều vướng mắc và khó có thể đạt được mục tiêu.

Ngoài ra, mức độ cạnh tranh tại thị trường tài chính – ngân hàng nước ngoài cũng rất lớn. Điển hình là Campuchia, có độ mở rất lớn, các thành viên tự do cạnh tranh trên thị trường trong khi vai trò quản lý, điều tiết của NHTW khá hạn chế. Còn tại Myanmar, hiện nay các ngân hàng nước ngoài vẫn chịu những giới hạn nhất định trong hoạt động kinh doanh so với ngân hàng bản địa. Theo đó các NHTM Việt Nam thường chịu nhiều thua thiệt trong cạnh tranh với các ngân hàng bản địa và nhất là các ngân hàng quốc gia khác như Trung Quốc. Trong khi đa phần các ngân hàng Việt Nam chưa hoàn toàn tiệm cận các chuẩn mực thông lệ quốc tế. Có lẽ đây cũng là trở ngại khiến các ngân hàng Việt khó thâm nhập sâu vào thị trường phát triển như Mỹ, châu Âu,...

Thứ năm, một trong những thách thức đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các NHTM Việt nam rất đáng chú ý mà các chuyên gia nhắc đến là việc các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam lo ngại về hiện tượng chuyển giá, lách luật nên đã có những ứng xử theo hướng thận trọng đối với hoạt động này của các NHTM. Cụ thể các chuyên gia nhận xét nhìn chung hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam tại thị trường nước ngoài là cơ bản và có nhiều điểm khích lệ, cần được ủng hộ. Tuy nhiên trong đó cũng có không ít hiện tượng NHTM đã lách luật, chuyển cho vay các khách hàng không cho vay được tại Việt nam do gặp phải rào cản quy định pháp luật sang cho vay tại thị trường nước ngoài. Đây là hiện tượng rất đang quan tâm và tiềm ẩn rủi ro lớn.

Ngoài ra một hiện tượng nữa các chuyên gia nhấn mạnh đến khi quan ngại về hoạt động kinh doanh tại thị trường nước ngoài của các NHTM Việt Nam đó là hiện tượng không minh bạch trong mảng hoạt động này từ đó tiềm ẩn những rủi ro. Tại thị


trường Việt Nam, các ngân hàng phải tuân thủ các quy định về công bố thông tin (nhất là những ngân hàng cổ phần niêm yết, chịu sự giám sát của Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên khi hoạt động tại thị trường nước ngoài, yêu cầu về công bố thông tin kém hơn rất nhiều. Trong khi đó năng lực giám sát của các ngân hàng trung ương lại hạn chế hơn. Điều này tiềm ẩn những rủi ro rất lớn trong hoạt động của các NHTM Việt Nam.

Những vấn đề thách thức được các chuyên gia nêu ra khá trùng với các khó khăn thông thường của các tập đoàn đa quốc gia gặp phải. Tuy nhiên theo quan sát, vướng mắc lớn nhất được các chuyên gia tập trung là liên quan đến vấn đề về pháp lý. Còn các vướng mắc khác ít được quan tâm, nhấn mạnh hơn. Điều này cho thấy mặt chi phí của hoạt động OFDI của các ngân hàng Việt Nam là chưa thực sự lớn hoặc vẫn trong tầm kiểm soát. Đây có lẽ là một lợi thế giúp tác động của hoạt động OFDI của các ngân hàng Việt Nam mang lại lợi ích nhiều hơn là chi phí bỏ ra. Điểm này giúp củng cố thêm kết quả mô hình định lượng được tính toán.

Mức độ tác động của mảng kinh doanh tại thị trường nước ngoài đến tổng thể hoạt động kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam có hoạt động OFDI

Nhiều chuyên gia nhấn mạnh rằng nếu chỉ nhìn vào con số tài chính như tỷ lệ dư nợ tại thị trường nước ngoài trong tổng dư nợ thì chắc chắn mức độ tác động là rất nhỏ. Tuy nhiên việc đánh giá mức độ tác không không dừng lại ở những con số bề mặt này. Các chuyên gia cho rằng không phải ngẫu nhiên mà tại các ngân hàng, Ban lãnh đạo cao cấp đều rất chú trọng cho mảng hoạt động này. Hiện nay các ngân hàng Việt Nam đang dành nguồn lực khá lớn cho mảng kinh doanh tại thị trường nước ngoài. Riêng với BIDV, Ban lãnh đạo BIDV rất quan tâm đối với mảng thị trường này. Hàng năm các hiện diện của BIDV đều họp tổng kết chung với Ban lãnh đạo BIDV tại trụ sở chính.

Kỳ vọng của các ngân hàng Việt Nam đối với mảng thị trường nước ngoài là không nhỏ. Trước hết đó là những lợi ích vô hình mang lại cho ngân hàng như lợi thế trong thu hút khách hàng, lợi thế từ đa dạng thị trường, lợi thế theo quy mô… Không những vậy hoạt động OFDI còn được xem là biểu tượng cho uy tín, thương hiệu tại thị trường trong nước. Bên cạnh đó, trong thời gian tới, kết quả kinh doanh của các đơn vị tại thị trường nước ngoài nhiều khả năng sẽ được cải thiện và từng bước đóng góp nhiều hơn vào kết quả kinh doanh tổng thể. Tất nhiên trong điều kiện các ngân hàng thực hiện quản lý tốt hoạt động kinh doanh tại thị trường nước ngoài.

Những vấn đề mà các ngân hàng Việt Nam OFDI cần chú trọng để có thể cải thiện, nâng cao mức độ đóng góp của mảng thị trường nước ngoài trong tổng thể hoạt động kinh doanh của ngân hàng mẹ thời gian tới ?


Có 3 vấn đề chủ chốt nhất mà các ngân hàng cần chú trọng là:

- Thứ nhất, quản lý chặt chẽ chi phí gia tăng khi mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài. Đây là vấn đề không chỉ đối với các ngân hàng Việt Nam mà còn đối với ngay cả các tập đoàn toàn cầu trên thế giới. Các ngân hàng Việt nam cần có cơ chế quản lý thực sự hiệu quả để đảm bảo những chi phí bỏ ra cho thị trường nước ngoài được tính toán đầu đủ, được kiểm soát và có định hướng rõ ràng.

- Thứ hai là vấn đề về nhân sự. Thông thường nhân sự người Việt nam chỉ giữ những vai trò chủ chốt trong các ngân hàng con tại nước ngoài. Tuy nhiên cần hết sức tránh tâm lý “nhiệm kỳ”. Nếu để xảy ra hiện tượng này, ngân hàng sẽ không thể đạt được toàn bộ những lợi ích có thể có. Thậm chí những hậu quả có thể gây ra còn rất lớn.

- Thứ ba là vấn đề về tổ chức quản lý. Nhìn chung năng lực quản lý, trình độ công nghệ của các ngân hàng Việt Nam còn hạn chế rất nhiều so với các ngân hàng toàn cầu. Các ngân hàng Việt Nam thường rơi vào tình trạng quản lý quá chặt hoặc quá lỏng các hoạt động kinh doanh tại thị trường nước ngoài. Khi quản lý chặt sẽ làm mất cơ hội kinh doanh, hoạt động tại thị trường nước ngoài sẽ không phát triển được. Nếu quản lý lỏng sẽ có thể dẫn đến rủi ro, không kiểm soát được, rủi ro đạo đức… Do đó các ngân hàng Việt nam cần đạt được được điểm cân đối trong quản lý các đơn vị tại thị trường nước ngoài.

Nhận định về kết quả nghiên cứu của tác giả cho biết hoạt động kinh doanh tại thị trường nước ngoài của 7 NHTM đang có hoạt động OFDI có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng này

Các chuyên gia đều thấy kết quả thú vị và ủng hộ kết quả. Điều này cho thấy thực tế dù kết quả hoạt động của các ngân hàng Việt nam tại thị trường nước ngoài chưa phải là quá lớn nhưng đã khẳng định được vai trò quan trọng trong kết quả hoạt động kinh doanh chung. Điều này cũng lý giải tại sao thực tế Ban lãnh đạo của các ngân hàng rất quan tâm, chỉ đạo đến hoạt động kinh doanh tại thị trường nước ngoài. Một chuyên gia còn nhấn mạnh lại: “trong kinh doanh, các con số tài chính chỉ là một phần, cần nhìn nhận đến dài hạn và nhìn nhận lợi ích”.

4.3. Kết luận chương 4

Tại chương 4, luận án đã sử dụng nhiều công cụ phân tích khác nhau để xác định câu trả lời cho các giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên đặt ra. Theo đó kết quả cho thấy: (1) mức độ OFDI và hiệu quả hoạt động động được đo bằng chỉ số FP thực sự có quan hệ thuận chiều với nhau; trong khi đó, đúng như giả định ban đầu, (2) mức độ OFDI và chỉ tiêu hiệu quả tài chính không có mối quan hệ được khẳng định;


(3) trong 3 biến kiểm soát trong mô hình quan hệ giữa OFDI và hiệu quả hoạt động chỉ có biến quy mô (được đo bằng TTS), biến chi phí quản lý có tác động đến hiệu quả hoạt động, biến vốn chủ sở hữu không có tác động được khẳng định; (4) cả 3 biến điều tiết đều có vai trò tác động đến mối quan hệ giữa mức độ OFDI và hiệu quả hoạt động, cụ thể: (4.1) trường hợp NHTM có vốn sở hữu nhà nước mối quan hệ thuận chiều giữa OFDI và hiệu quả hoạt động sẽ thấp hơn so với trường hợp NHTM không có vốn sở hữu nhà nước; (4.2) trong trường hợp NHTM có hoạt động tại 7 thị trường nước ngoài thì mối quan hệ thuận chiều giữa OFDI và hiệu quả hoạt động sẽ được tăng cường hơn; và (3) thời gian hoạt động tại thị trường nước ngoài càng dài thì mối quan hệ thuận chiều giữa mức độ OFDI và hiệu quả hoạt động càng yếu hơn. Bên cạnh đó trong chương 4 của luận án cũng trình chi tiết kết quả nghiên cứu định tính bằng phương pháp phỏng vấn chuyên gia về các kết quả nghiên cứu định lượng. Tổng kết cho thấy ý kiến các chuyên gia theo hướng ủng hộ và có nhiều thông tin làm rõ hơn những kết quả nghiên cứu định lượng.

Với các kết quả thu được, các nội dung tại chương 4 của luận án đã giải đáp được các giả thuyết nghiên cứu đề ra, trả lời được câu hỏi nghiên cứu và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu thứ 4 đã đề ra là: Phân tích, đánh giá tác động của OFDI tới chỉ tiêu hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt nam có hoạt động OFDI.


CHƯƠNG 5. THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KHUYẾN NGHỊ


5.1. Thảo luận kết quả nghiên cứu

5.1.1. Về mối quan hệ giữa mức độ OFDI và kết quả, hiệu quả hoạt động kinh doanh

Thứ nhất, đúng như dự kiến ban đầu, đối với những NHTM đang trong giai đoạn đầu của quá trình OFDI như các NHTM Việt Nam, quy mô tài sản tại thị trường nước ngoài còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản của NHTM, vai trò và đóng góp về mặt tài chính từ mảng thị trường nước ngoài trong tổng thể còn hạn chế, khi đó mối quan hệ giữa mức độ OFDI với các chỉ tiêu kết quả tài chính sẽ chưa được thể hiện, thậm chí kết quả kiểm định mối quan hệ có thể cho kết quả sai. Trong trường hợp các NHTM Việt Nam, kết quả kiểm định mối quan hệ không có ý nghĩa thống kê nên không có cơ sở để đưa ra kết luận về mối quan hệ. Ở giác độ thực tiễn, kết quả này có thể xem là phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam giai đoạn vừa qua. Đồng thời qua kết quả này cũng cho thấy việc sử dụng các chỉ tiêu tài chính, kết quả kinh doanh tại thị trường nước ngoài để làm tiêu chí đánh giá những lợi ích mang lại từ hoạt động OFDI sẽ là chưa hợp lý.

Thứ hai, kết quả kiểm định mô hình đánh giá mối quan hệ giữa mức độ OFDI và hiệu quả hoạt động được đo bằng chỉ số FP cho kết quả thuận chiều. Đây là kết quả tích cực và trùng với giả thuyết nghiên cứu ban đầu: khi gia tăng OFDI thì OE của các NHTM cũng gia tăng thuận chiều. Thậm chí mức tăng OFDI tác động đến hiệu quả FP ở mức khá cao so với các biến khác. Kết quả này cho thấy những nguyên lý đề xuất trong các lý thuyết đã được rà soát trong Chương 1 đã thực sự phát huy tác dụng, ít nhất trong phạm vi nghiên cứu của luận án. Theo đó, có thể kết luận trong trường hợp các NHTM Việt Nam có hoạt động OFDI trong giai đoạn 2009-2020 đã thực sự thu được những lợi ích từ lợi thế theo quy mô, theo phạm vi, chiếm được lợi thế cạnh tranh riêng biệt trong việc theo chân khách hàng ra nước ngoài và nâng cao khả năng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm... Dấu thuận chiều cho thấy những lợi ích của hoạt động OFDI của các ngân hàng đang cao hơn so với chi phí bỏ ra. Đồng thời kết quả cũng phù hợp với các kết quả nghiên cứu về mô hình đường cong biểu diễn mối quan hệ giữa OFDI và chỉ tiêu hiệu quả theo dạng thuận chiều, chữ U ngược và chữ S ngang. Tuy nhiên rất đáng tiếc là dữ liệu của Việt nam không đủ thông tin để có thể tiếp tục

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/02/2023