Giải Pháp Nhằm Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại


vậy, khả năng đạt mức lợi nhuận kỳ vọng cho các cổ đông ngân hàng và sự đóng góp của các ngân hàng vào phát triển kinh tế xã hội chung được đảm bảo.

5.2.2. Giải pháp nhằm quản trị rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại

Thứ nhất, các ngân hàng thương mại cần hoàn thiện khung quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II.

Một hệ thống quản trị rủi ro tín dụng tốt phải được đặt trong môi trường rủi ro thích hợp. Chiến lược rủi ro trong đó xác định rõ mức độ chấp nhận rủi ro chung, và mức độ chấp nhận rủi ro tín dụng nói riêng là kim chỉ nam cho sự vận hành của hệ thống quản lý rủi ro tín dụng. Chiến lược rủi ro tín dụng của Ngân hàng phải được xây dựng dựa trên những đánh giá toàn diện, kỹ lưỡng tình hình kinh doanh của ngân hàng và tình hình kinh tế vĩ mô. Hội đồng quản trị là cơ quan chịu trách nhiệm cuối cùng trong việc phê duyệt chiến lược rủi ro tín dụng.

Hình 5.1. Các cấu phần quản trị rủi ro chủ yếu


1.Khung QTRR

- Nhận thức và văn hóa QTRR

- Chiến lược QTRR

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.

- Triết lý QTRR

- Mức độ chấp nhận RR

Tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng đến sự ổn định tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam - 17

- Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ

Khung

QTRR

2. Cơ sở hạ tầng

- Nhân sự

- Chính sách

- Công nghệ

- Phương pháp luận

- Quy trình

- Báo cáo

Các bước QTRR

3. Các bước QTRR

- Nhận diện rủi ro

- Đánh giá rủi ro

- Quản trị rủi ro

guồn h o as l Thứ hai, các ngân hàng thương mại cần xây dựng quy trình QTRR tín dụng

hợp lý.

Để có được quy trình QTRR tín dụng hợp lý, ngân hàng cần phải thiết lập các tiêu chí QTRR tín dụng hợp lý, cơ chế phân cấp thẩm quyền phù hợp, phản


ảnh khẩu vị rủi ro của Ngân hàng. Ngoài ra các chính sách QTRR tín dụng đi đôi với tăng trưởng tín dụng, cho vay các lĩnh vực rủi ro cao như đầu tư chứng khoán, bất động sản cần phải được thường xuyên xem xét, đảm bảo phù hợp với chiến lược rủi ro trong từng thời kỳ.

Thứ ba, các ngân hàng thương mại cần nâng cao chất lượng công tác giám sát, kiểm soát rủi ro tín dụng

Theo Basel II, một trong những nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng là đảm bảo hiệu quả của công tác giám sát, kiểm soát nội bộ. Điều này thể hiện ở việc đánh giá các thước đo rủi ro, chất lượng quản trị rủi ro, mức độ tuân thủ các quy trình, quy định, hạn mức rủi ro thị trường. Công việc này cần thiết phải được thực hiện thường xuyên bởi các bộ phận quản trị rủi ro và bộ phận giám sát độc lập khác.

5.2.3. Các giải pháp khác nhằm tăng cường sự ổn định tài chính của các Ngân hàng thương mại

Thứ nhất, kết quả hồi quy cho thấy các nhân tố có tác động đến sự ổn định tài chính của NHTM là tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động ròng, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu, quy mô ngân hàng, tỷ lệ dư nợ vay trên tổng tài sản. Điều này hàm ý rằng để giảm bất ổn tài chính, các NHTM cần có chính sách quản trị chi phí, quản trị nguồn vốn chủ sở hữu và chính sách tín dụng phù hợp như sau:

Vì tỷ lệ vốn chủ sở hữu bình quân trên tổng tài sản bình quân tỷ lệ nghịch với độ bất ổn tài chính của NHTM nên khi ngân hàng mở rộng hoạt động, tổng tài sản và quy mô ngân hàng tăng lên, NHTM cần chủ động gia tăng tương ứng nguồn vốn chủ sở hữu để đảm bảo tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản không bị sụt giảm. Một quy mô lớn hơn đã tiềm ẩn khả năng bất ổn tài chính cao hơn, do đó thách thức hệ thống quản trị của ngân hàng phải bao quát và hiệu quả hơn. Lúc này tầm quan trọng của việc quản trị chi phí được đánh giá cao, duy trì tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động ròng vừa phải, hoạt động ngân hàng sẽ đảm bảo lợi nhuận và ổn định hơn.


Với đặc trưng lợi nhuận phụ thuộc phần lớn vào hoạt động tín dụng, thu nhập từ hoạt động tín dụng có ảnh hưởng rõ rệt đối với kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam. Việc duy trì một tỷ lệ cho vay cao trên tổng tài sản sẽ hứa hẹn một độ ổn định cao về tài chính cho các ngân hàng. Vấn đề ở đây là chất lượng của danh mục cho vay, với danh mục cho vay tập trung quá nhiều vào các lĩnh vực rủi ro, thời gian qua hai lĩnh vực cho vay rủi ro bị hạn chế là cho vay kinh doanh bất động sản và đầu tư chứng khoán, thì lợi nhuận của NHTM khó mà đảm bảo khi cho vay không thu hồi được vốn. Do vậy, chính sách tín dụng cần quy định giới hạn cho vay các lĩnh vực rủi ro trên tổng dư nợ để đảm bảo lợi nhuận ổn định, nhà quản trị ngân hàng cần theo sát tình hình diễn biến của các ngành nghề để điều chỉnh tỷ trọng dư nợ cho vay ngành nghề đó theo hướng mở rộng nếu ngành đó đang ổn định, tăng trưởng hay thu hẹp nếu ngành đang bão hòa, khả năng lợi nhuận kém. Chính sách tín dụng cũng cần phải cân nhắc rủi ro và tỷ lệ đảm bảo phù hợp, phải đảm bảo khả năng thu hồi vốn trong trường hợp khách hàng không trả được nợ vay từ hoạt động kinh doanh, sau cho vay cần theo dõi bám sát tình hình, tăng cường kiểm tra sử dụng vốn đối với các trường hợp được đánh giá là rủi ro cao hơn để có biện pháp can thiệp giảm dần dư nợ khi cần thiết.

Thứ hai, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng đến sự ổn định tài chính của các NHTM. Điều này hàm ý rằng môi trường vĩ mô cùng với những chính sách điều tiết của nhà nước thời gian qua làm tăng độ bất ổn tài chính của các NHTM. Do đó, quản lý kinh tế vĩ mô thời gian tới cần chú trọng đến bình ổn thị trường chứng khoán, cân nhắc hợp lý các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiềm chế và kiểm soát lạm phát nhưng bằng những giải pháp đồng thời không ảnh hưởng đến ổn định của các ngân hàng.

5.2.4. Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm rủi ro tín dụng cho Ngân hàng thương mại Việt Nam

Hệ thống cảnh báo sớm rủi ro tín dụng khách hàng (EWS) được xây dựng để đưa ra các cảnh báo về mức độ rủi ro của khách hàng cho ngân hàng. Từ đó,


ngân hàng chủ động trong các biện pháp xử lý và hỗ trợ khách hàng, hạn chế khả năng phát sinh nợ xấu, tăng chất lượng tín dụng của hệ thống. EWS sẽ là công cụ quan trọng đảm bảo cho ngân hàng ở vị thế dẫn đầu về an toàn tín dụng, là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất trong hệ thống ngân hàng.

Khi nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng lên cũng đồng nghĩa với rủi ro của ngân hàng tăng theo, gây áp lực không nhỏ với hoạt động quản lý rủi ro tín dụng. Với danh mục lên tới hàng trăm khách hàng đang có dư nợ tín dụng, gây khó khăn trong quản lý và kiểm soát rủi ro bởi có nhiều tiêu chí quản lý tín dụng cần phải rà soát. Khi áp dụng EWS, hệ thống tự động tiến hành sàng lọc và phân loại thông tin đầu vào, giúp ngân hàng có được bức tranh tổng quan hơn về danh mục khách hàng, nhận diện sớm những khách hàng tiềm ẩn rủi ro.

Dựa trên nền tảng công nghệ hàng đầu thế giới, EWS được các ngân hàng xây dựng có khả năng xử lý hàng triệu bản ghi trong thời gian ngắn với 2 màng lọc. Màng lọc thứ nhất dựa trên thông tin từ Hệ thống Kho Dữ liệu doanh nghiệp (EDW), Hệ thống Xếp hạng tín dụng nội bộ, Hệ thống Quản lý rủi ro tín dụng. Từ đó, hệ thống lọc ra danh mục các khoản tín dụng cần điều tra. Sau đó, màng lọc thứ 2 dựa trên kết quả điều tra thông tin về hoạt động kinh doanh của khách hàng và các nguồn thông tin đáng tin cậy từ bên ngoài để đưa ra mức độ cảnh báo Đỏ, Vàng, Xanh tương ứng đối với khoản tín dụng đó. Có 3 mức độ cảnh báo rủi ro tín dụng sớm bao gồm: Xanh khó khăn tạm thời, Vàng rủi ro, Đỏ rủi ro cao, suy giảm mạnh khả năng trả nợ, nguy cơ chuyển nhóm nợ lớn.

EWS là công cụ giúp giải bài toán nghiệp vụ trong quản lý rủi ro tín dụng, chuyển từ phương pháp đánh giá rủi ro định tính sang định lượng, buộc chi nhánh (CN) phải thực hiện nghiêm túc việc giám sát, kiểm soát khách hàng. EWS không chỉ tiết kiệm thời gian, công sức cho nhân viên tín dụng mà còn hữu hiệu với Khối Quản lý rủi ro và các cấp lãnh đạo cao hơn.

Với giao diện trực quan của EWS, nhà quản lý có thể nhìn nhận được dư nợ khách hàng theo từng phân khúc, theo từng mức độ cảnh báo cụ thể và lọc ra danh


mục khách hàng tiềm ẩn. Qua đó, CN có thể đánh giá những khách hàng nào có rủi ro chuyển nhóm, thời điểm chuyển nhóm, từ đó chủ động xây dựng các kế hoạch tài chính phù hợp với thực tiễn. Điều này góp phần không nhỏ nâng cao tính chủ động trong hoạt động kinh doanh và cân đối vốn của CN, bởi nếu phát sinh nợ xấu sẽ buộc CN phải tăng trích lập hay thoái lãi dự thu. Theo số liệu thống kê, việc triển khai hệ thống giám sát tín dụng và hệ thống cảnh báo sớm hiệu quả có thể giúp các ngân hàng phát hiện sớm khả năng không trả được nợ vay của khách hàng trước thời điểm xảy ra vỡ nợ thực sự khoảng 6 tháng. Các ngân hàng phát triển tốt hệ thống giám sát tín dụng cũng có thể giảm thiểu tổn thất, trong khi mức trung bình ước tính khi không có hệ thống giám sát hiệu quả thấp hơn.

5.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chính phủ

Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Đóng vai trò là người chủ trì và hỗ trợ liên kết các ngân hàng thương mại trong việc thực hiện cung ứng các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, NHNN cần đưa ra các chính sách, cơ chế, quy định về kỹ thuật công nghệ, đặc biệt là đường truyền thông tin.

Thứ hai, công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động kinh doanh của các ngân hàng cần tăng cường chặt chẽ. Đồng thời cần nghiên cứu và dự báo các rủi ro tiềm ẩn mà ngân hàng đang và sẽ đối mặt: rủi ro tập trung danh mục, rủi ro về môi trường kinh tế, rủi ro chính trị...đây là những cảnh báo sớm rất hữu ích cho các ngân hàngtrong điều kiện thu thập thông tin còn nhiều khó khăn và hạn chế.

Thứ ba, đảm chất lượng thông tin tín dụng tại trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN được nhanh chóng, kịp thời, chính xác, đáp ứng yêu cầu thông tin cập nhật và chính xác về khách hàng. Đưa ra các phương hướng và giải pháp để các NHTM nhận thức rõ quyền lợi và nghĩa vụ trong việc cung cấp và sử dụng thông tin tín dụng.

Thứ tư, với vai trò là cơ quan cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước trong lĩnh vực tín dụng, thông qua các mô hình định tính và định lượng phù hợp NHNN cần phân tích và dự báo về diễn biến thị trường tín dụng trong từng thời kỳ dựa


trên cơ sở các biến số kinh tế, tiền tệ vĩ mô. Qua đó cung cấp các đánh giá và dự báo vĩ mô về diễn biến thị trường với chất lượng cao để các NHTM có cơ sở tham khảo một cách tin cậy khi hoạch định chiến lược phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng của mình.

Thứ năm, trong hoạt động thanh tra giám sát các NHTM, NHNN cần ứng dụng những nguyên tắc cơ bản về giám sát hiệu quả hoạt động Ngân hàng của uỷ ban Basel, tuân thủ nguyên tắc thận trọng. Mô hình tổ chức bộ máy thanh tra ngân hàng cần được hoàn thiện theo ngành dọc từ Trung ương xuống cơ sở và có sự độc lập tương đối về điều hành và hoạt động nghiệp vụ trong tổ chức bộ máy của NHNN.

Đối với chính phủ: ổn định chính sách kinh tế vĩ mô và luật pháp quản lý rủi ro ngân hàng

Tiếp tục đưa ra các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, kìm chế lạm phát, tăng trưởng kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống tài chính, thị trường chứng khoán và các ngân hàng. Tập trung cải thiện môi trường thu hút đầu tư nhằm thúc đẩy thu hút hoạt động đầu tư, bao gồm cả đầu tư trong nước và nước ngoài vào nền kinh tế và khu vực ngân hàng sao cho phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng tài chính trong nước.

Nhằm tạo thêm nguồn thông tin cho các NHTM khi đánh giá, xếp hạng tín dụng khách hàng, chính phủ cần sớm ban hành khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của công ty xếp hạng tín nhiệm và có cơ chế, chính sách hướng dẫn đơn giản hóa quy trình giao dịch đảm bảo khi thực hiện giao dịch đăng ký đảm bảo cho một món vay. Đồng thời, xây dựng hệ thống thông tin về các tổ chức tín dụng cung cấp cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài về các dự án đầu tư trong tương lai trên lãnh thổ Việt Nam có xem xét đến “độ mở‟ thông tin đối với các dự án này.

Trong quá trình phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ, Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong khâu xử lý do văn bản thi hành án còn rất chậm. Đề ra quy định, hướng thủ tục nhanh chóng bàn giao tài sản đảm bảo cho NHTM đối với cơ quan thi hành án. Để công tác phát mãi tài sản đảm bảo của ngân hàng được nhanh


chóng và hiệu quả thì chính phủ nên thành lập một thị trường chính thống về đấu giá tài sản phát mại công khai, minh bạch giữa các bên. Ngoài ra, ban hành luật hoá thị trường bán đấu giá; thành lập công ty hay trung tâm bán đấu giá có sự chỉ đạo, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ; xây dựng quy trình thực hiện đấu giá gọn nhẹ và hiệu quả nhằm chuẩn hoá và đảm bảo cho thị trường hoạt động chính thống Nhà nước.

5.4. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo

Cấu trúc và hoạt động của hệ thống tài chính cũng như mối tương tác của nó với nền kinh tế hết sức phức tạp, các mô hình kinh tế và các nghiên cứu khó có thể hiểu hết được những vấn đề ẩn chứa trong đó. Vì vậy, tác giả cho rằng kiểm tra tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng tới sự ổn định tài chính của các NHTM nên được coi là một quá trình liên tục, phải được cải tiến và phát triển không ngừng, không nên bị gián đoạn ở bất kỳ thời điểm nào.

Mặc dù đã đạt được mục tiêu nghiên cứu, tác giả nhận thấy nghiên cứu này vẫn còn hạn chế và cần được bổ sung, cải thiện trong tương lai.

Thứ nhất, mặc dù mẫu nghiên cứu được thực hiện với hầu hết các NHTM Việt Nam nhưng chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài, ngân hàng Chính sách, hay các ngân hàng thương mại khác không thuộc đối tượng nghiên cứu. Do mỗi quy mô và loại hình ngân hàng có những đặc thù về cạnh tranh, về nguồn nhân lực, năng lực quản trị khác nhau nên tác động của rủi ro tín dụng tới sự ổn định có thể không giống nhau. Như vậy, nghiên cứu chỉ kiểm định một bộ phận ở các ngân hàng Việt Nam nên tính khái quát hoá chưa cao. Nghiên cứu tiếp theo có thể thực hiện trên phạm vi rộng hơn, nhiều ngân hàng hơn để kết quả có tính tổng quát cao hơn.

Thứ hai, luận án chỉ tập trung vào nghiên cứu thực nghiệm tác động của vốn chủ sở hữu, rủi ro tín dụng tới sự ổn định tài chính của các NHTM được lấy từ báo cáo tài chính được công bố theo năm từ năm 2008 đến năm 2016. Các nghiên cứu tiếp theo cần cải thiện quá trình thu thập số liệu, qua đó nâng cao cả chất lượng và số lượng của số liệu. Đánh giá tác động của các biến kinh tế là quá trình


đòi hỏi nhiều số liệu, bao gồm cả các số liệu mang tính chất vĩ mô cho cả nền kinh tế và những số liệu riêng lẻ của từng ngân hàng. Những dãy số thời gian dài sẽ giúp người thực hiện kiểm tra dễ dàng hơn trong việc xác định kịch bản, những dãy số quá ngắn thường không có nhiều biến động mạnh và do vậy khó hình dung ra các tác động. Đối với số liệu về hoạt động của các ngân hàng, số liệu càng chi tiết sẽ càng giúp cho những mô phỏng, giả định sát với thực tế và kết quả càng chính xác hơn.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/12/2022