Xác Định Rủi Ro Tín Dụng Theo Ias 39 Và Hiệp Ước Vốn Basel


Bảng 2.1-Đối tượng xét rủi ro tín dụng trong NHTM


Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN

Thông tư 02/2013/TT-NHNN

a) Các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài chính

b) Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác

c) Các khoản bao thanh toán


d) Các hình thức tín dụng khác

a) Cho vay


b) Cho thuê tài chính


c) Chiết khấu, tài chiết khấu các giấy tờ có giá và công cụ chuyển nhượng khác

d)Bao thanh toán


e) Tín dụng thông qua phát hành thẻ


f) Các khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng

g) Ủy thác mua trái phiếu DN chưa niêm yết

h. Ủy thác cấp tín dụng


k. Tiền gửi các TCTD khác (trừ tiền gửi thanh toán)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Các nhân tố tác động đến mức trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và việc trình bày dự phòng rủi ro tín dụng trên BCTC tại các ngân hàng thương mại Việt Nam - 5

Nguồn: Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN


Như vậy, phạm vi xem xét phân loại nợ làm cơ sở cho dự phòng rủi ro tín dụng của Thông tư 02 bao quát, đầy đủ và chi tiết hơn Quyết định 493. Với Quyết định 493 trước đây thì TCTD có thể lách việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng bằng cách cho vay dưới các hình thức khác, và như vậy sẽ khiến lợi nhuận của ngân hàng tăng lên do không phải mất chi phí dự phòng rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, Thông tư 02 đã mở rộng định nghĩa các khoản vay nên các TCTD sẽ phải thận trọng hơn khi cho vay cũng như trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó, Thông tư 02 áp dụng tỷ lệ chiết khấu thận trọng hơn đối với tài sản thế chấp, điều này sẽ dẫn


đến giá trị thế chấp sẽ thấp đi trong khi dự phòng cho khoản vay sẽ tăng lên. Ví dụ như tỷ lệ khấu trừ của tài sản đảm bảo là bất động sản lên tới 50%.

Thông tư 02 thể hiện được sự kiên quyết của NHNN trong việc đưa các quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của Việt Nam từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời buộc các NHTM phải nâng cao trách nhiệm hơn trong việc cho vay, đánh giá đúng những rủi ro và thể hiện sự thận trọng trong việc phân loại nợ và trích lập dự phòng để bù đắp cho nợ xấu.

2.1.3 Dự phòng rủi ro tín dụng trong ngân hàng


Khi một ngân hàng nhận ra sự kiện, hay một nhóm các sự kiện có thể dẫn đến những rủi ro tín dụng từ phía khách hàng, dựa vào các hướng dẫn, ngân hàng sẽ nhận diện và đánh giá rủi ro để từ đó ước lượng khả năng tổn thất tài sản của ngân hàng. Một khoản nợ của khách hàng được ngân hàng xác định có khả năng rủi ro không thu hồi được một phần hay toàn bộ, ngân hàng sẽ ghi nhận phần tổn thất dự kiến không thu hồi được của số dư nợ gốc vào chi phí trong kỳ, và khoản chi phí này là chi phí dự phòng rủi ro của ngân hàng.

Theo IAS 39 – đoạn 58, yêu cầu mỗi đơn vị vào cuối mỗi kỳ kế toán phải đánh giá xem liệu có bất kỳ bằng chứng khách quan nào thể hiện một tài sản tài chính hoặc một nhóm tài sản tài chính bị tổn thất. Khi bằng chứng khách quan được thành lập, tổ chức phải ước tính khoản tổn thất một cách đáng tin cậy. Sau đó, giá trị ghi sổ có thể được giảm một cách trực tiếp hoặc thông qua tài khoản dự phòng. Đây là khoản dự phòng dành cho sự suy giảm về tài sản của ngân hàng khi phát sinh các rủi ro và ước tính được tổn thất đáng tin cậy.

Theo IFRS 7- đoạn 1, yêu cầu đơn vị cần cung cấp thông tin đề người sử dụng đủ đánh giá được bản chất và quy mô rủi ro (bao gồm rủi ro tín dụng) phát sinh từ công cụ tài chính (trong đó bao gồm tài sản tài chính) mà ngân hàng phải chịu trong kỳ kinh doanh cũng như vào ngày lập BCTC và ngân hàng đã quản trị các rủi ro này như thế nào. Để đạt được yêu cầu này, IFRS 7 các đoạn 36-38 yêu cầu các đơn vị cần công bố các thông tin định lượng và định tính về các rủi ro phát


sinh từ các TSTC (trong đó bao gồm cả các khoản dư nợ tín dụng ngân hàng của các NHTM), bao gồm cả các công bố tối thiểu về rủi ro tín dụng. Các thông tin định tính mô tả mục tiêu của nhà quản trị cũng như chính sách và quá trình quản trị rủi ro này. Các công bố định lượng cung cấp thông tin về quy mô, phạm vi mà tổ chức phải chịu tổn thất từ các rủi ro được dựa trên thông tin được cung cấp bởi quản trị nhân sự cuả đơn vị. Tiêu chuẩn này cũng đòi hỏi các ngân hàng phải tiết lộ thông tin định tính và định lượng về các rủi ro phát nhằm giúp người sử dụng báo cáo tài chính đánh giá chất lượng tín dụng của các tài sản tài chính, mức độ và nguồn dự phòng rủi ro.

Điều 131 Luật số 47/2010/QH12: Luật các tổ chức tín dụng quy định về dự phòng rủi ro như sau: “ Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải dự phòng rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Khoản dự phòng rủi ro được hạch toán vào chi phí hoạt động”. “Việc phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động do Ngân hàng Nhà nước quy định sau khi thống nhất với Bộ Tài chính”. Như vậy, rủi ro tín dụng là dạng rủi ro thường xuyên xuất hiện trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Vì vậy, việc trích lập dự phòng để xử lý rủi ro là điều cần thiết nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của tổ chức tín dụng

Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng.

Theo thông tư 02/2013/TT-NHNN sẽ được thay thế cho quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và có hiệu lực từ tháng 06/2014 thì dự phòng rủi ro là số tiền được trích lập và hạch toán vào chi phí hoạt động để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Cả hai văn bản trên đều quy định dự phòng rủi ro tín dụng gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung.


Dự phòng cụ thể là số tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với từng khoản nợ cụ thể. Và tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng cụ thể là bao nhiêu thì tùy thuộc vào khoản nợ đó được phân loại vào nhóm nợ nào.

Dự phòng chung là số tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra nhưng chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể. Và theo quyết định 493 thì dự phòng chung được xác định bằng 0,75% tổng số dư các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.

Dù là quyết định 493 hay thông tư 02 đều được Ngân hàng Nhà nước đưa ra dựa trên những chuẩn mực, quy định của thế giới. Lĩnh vực ngân hàng Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói chung đang từng bước hội nhập sâu với thông lệ quốc tế, và từng bước áp dụng một cách phù hợp vào Việt Nam.

2.2 Cơ sở xác định rủi ro tín dụng


2.2.1 Xác định rủi ro tín dụng theo IAS 39 và Hiệp ước vốn Basel


2.2.1.1 Chuẩn mực kế toán quốc tế 39 (IAS 39)


Theo IAS39 – đoạn 59 đưa ra bằng chứng khách quan mà TSTC hay nhóm TSTC bị suy giảm bao gồm các sự kiện tổn thất sau:

(a) Khó khăn tài chính đáng kể của bên có nghĩa vụ nợ.

(b) Sự vi phạm hợp đồng, chẳng hạn sự vỡ nợ hay sự phạm lỗi trong việc thanh toán gốc hay lãi.

(c) Người cho vay, vì lý do kinh tế hay luật pháp liên quan đến khó khăn tài chính của người đi vay, sẽ cấp cho người đi vay sự nhượng bộ nào đó mà người cho vay sẽ không làm nếu không xem xét đến.

(d) Có thể người đi vay bị phá sản hay tái cấu trúc lại tài chính.

(e) Sự biến mất của thị trường hoạt động đối với TSTC vì các khó khăn tài chính.

(f) Dữ liệu quan sát được chỉ ra rằng sự suy giảm có thể đo lường được trong ước tính các luồng tiền trong tương lai từ nhóm các TSTC từ lúc ghi nhận ban đầu những tài sản này, mặc dù sự giảm giá này không được nhận diện với từng TSTC cá biệt trong nhóm, bao gồm:


(i) Sự thay đổi theo hướng bất lợi về tình trạng thanh toán của những người đi vay trong nhóm ( chẳng hạn như sự gia tăng số lượng các khoản thanh toán bị chậm hay sự tăng lên của những chủ thẻ tín dụng đã đạt tới hạn mức tín dụng tối thiểu và đang duy trì việc chi trả số tiền tối thiểu hàng tháng); hoặc

(ii) Các điều kiện kinh tế quốc gia hay địa phương có liên quan đến việc mất khả năng chi trả cho tài sản trong nhóm (ví dụ như sự gia tăng thất nghiệp trong vùng của người vay, sự giảm giá bất động sản cầm cố trong vùng liên quan, giảm giá dầu đối với các khoản cho vay dùng cho sản xuất dầu, hay sự thay đổi bất lợi các điều kiện của công nghiệp mà tác động đến những người đi vay)

Khi các bằng chứng đã chứng minh về sự kiện tổn thất thì chủ thể sẽ chịu một khoản lỗ do tài sản bị sụt giảm hoặc các sự kiện có ảnh hưởng đến dòng tiền tương lai và được ước tính một cách đáng tin cậy.

Theo IAS 39 – đoạn 63 thì số tổn thất cho vay đó được tính bằng chênh lệch giữa giá trị ghi sổ và giá trị hiện tại của ước tính dòng tiền trong tương lai được chiết khấu theo lãi suất thực gốc của TSTC. Sau đó, giá trị ghi sổ sẽ có thể được giảm một cách trực tiếp hoặc thông qua sử dụng tài khoản dự phòng. Các khoản sụt giảm được ghi nhận báo cáo kết quả kinh doanh.

2.2.1.2 Hiệp ước vốn Basel


Basel II cung cấp hai phương pháp đánh giá tín dụng gồm Phương pháp đánh giá tiêu chuẩn (Stvàardized) và phương pháp đánh giá dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ cơ bản (F-IRB) hoặc nâng cao (A-IRB)

Phương pháp chuẩn đánh giá rủi ro tín dụng:


Phương pháp đánh giá tiêu chuẩn buộc các ngân hàng cần có sự hỗ trợ của các tổ chức xếp hạng tín dụng bên ngoài và từ đó xác định hệ số rủi ro theo quy định. Theo phương pháp này, Basel II phân chia danh sách tín dụng khách hàng làm 7 nhóm với các trọng số rủi ro khác nhau bao gồm :

- Khoản cho vay đối với quốc gia


- Khoản cho vay đối với ngân hàng

- Khoản cho vay đối với doanh nghiệp

- Khoản cho vay đối với danh mục bán lẻ

- Khoản cho vay được đảm bảo bằng tài sản nhà ở

- Khoản cho vay được đảm bảo bằng bất động sản thương mại

- Các loại tài sản khác

Basel II đưa ra trọng số rủi ro tương ứng với từng loại tài sản và áp dụng phù hợp với từng mức độ nhạy cảm rủi ro khác nhau dựa trên mức đánh giá của tổ chức xếp hạng độc lập.

Phương pháp xếp hạng nội bộ đánh giá rủi ro tín dụng


Phương pháp đánh giá dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ. Phương pháp này dựa trên các yếu tố định tính và định lượng để từ đó có cơ sở ước lượng mức vốn tối thiểu cho khoản tổn thất. Và dựa vào kết quả xếp hạng nội bộ mà các ngân hàng có thể sử dụng mô hình để ước lượng xác suất trả nợ hoặc không trả nợ của khách hàng. Tuy nhiên, ngân hàng cần có sự cho phép của cơ quan giám sát ngân hàng khi áp dụng phương pháp này.

Theo Basel II, phương pháp đánh giá dựa trên xếp hạng nội bộ dựa trên quy mô, đặc điểm, nguồn lực của ngân hàng mà chia ra làm 2 phương pháp, gồm có phương pháp đánh giá dựa trên xếp hạng nội bộ cơ bản và nâng cao. Sự khác biệt giữa hai phương pháp này chính là việc sử dụng thông tin nội bộ của ngân hàng để ước lượng tham số chính cấu thành rủi ro tín dụng. Theo phương pháp xếp hạng nội bộ này thì vốn yêu cầu tối thiểu đối với rủi ro tín dụng sẽ được xác định chính xác hơn. Đồng thời có sự phân biệt về vốn yêu cầu tối thiểu giữa các khoản cho vay đối với các đố tượng khách hàng khác nhau


2.2.2 Căn cứ xác định rủi ro tín dụng tại các NHTM ở Việt Nam


Theo thông tư 02/2013/TT-NHNN quy định các ngân hàng thương mại phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để xếp hạng khách hàng theo định kỳ và gửi cho CIC (Trung tâm thông tin tín dụng). Kết quả phân loại từ CIC sẽ làm căn cứ cho các ngân hàng điều chỉnh kết quả phân loại nợ theo nguyên tắc quy định thành 5 nhóm nợ và được đánh giá theo 2 phương pháp định lượng và định tính.

2.2.2.1. Đánh giá theo định lượng


Theo phương pháp này, nợ được phân thành 5 nhóm sau: Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn bao gồm:

Nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi gốc và lãi đúng hạn

Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn, và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.

Nhóm 2: Nợ cần chú ý bao gồm:


Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày

Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm:

Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày

Các khoản nợ được gia hạn

Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng

Nhóm 4: Nợ nghi ngờ bao gồm:


Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày


Các khoản nơ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn nợ được cơ cấu lại lần đầu

Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần hai Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn bao gồm:

Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày

Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu

Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai bị quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai

Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn

Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý

2.2.2.2. Đánh giá theo định tính


Theo phương pháp định tính, nợ cũng được phân làm 5 nhóm nợ, nhưng không căn cứ vào số ngày quá hạn mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Các nhóm nợ bao gồm:

Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi vay đúng hạn.

Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu suy giảm khả năng trả nợ

Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn

Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/12/2023