Tác Động Của Việc Gia Nhập Wto Đến Hoạt Động Xuất Nhập Khẩu Của Việt Nam


cạnh đó, các rào cản thương mại cũng sẽ được dựng lên với hàng hóa của Việt Nam – như một tất yếu trong nền kinh tế toàn cầu. Điều đó đặt ra những gánh nặng về tài chính và kỹ thuật không nhỏ cho Việt Nam trong thời gian tới để xây dựng thực hiện các biện pháp kiểm tra hàng xuất khẩu.‌

III. Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam

Xuất phát từ vai trò và vị trí quan trọng của WTO đối với thương mại toàn cầu, gia nhập WTO sẽ có tác động tích cực đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít các tác động bất lợi đối với nền kinh tế Việt Nam.

3.1 Tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam

3.1.1 Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu

Thực hiện chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu, Việt Nam đã xây dựng được nhiều ngành có năng lực sản xuất lớn, sức cạnh tranh cao và kim ngạch xuất khẩu đứng hàng đầu thế giới như hạt tiêu đứng thứ nhất, gạo và hạt điều xuất khẩu đứng thứ hai, chè và thuỷ sản đứng thứ bảy trên thị trường thế giới. Trong các mặt hàng đó có nhiều mặt hàng có tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu rất cao như dệt may năm 2004 tăng hơn 5 lần, giầy dép tăng hơn 9 lần so với năm 1995. Tuy nhiên do một số thị trường chưa được khai thông, hoặc bị phân biệt đối xử nên khả năng xuất khẩu còn hạn chế.

Gia nhập WTO đồng nghĩa với việc hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ không bị bó hẹp trong các Hiệp định song phương và khu vực mà sẽ có thị trường toàn cầu. Việt Nam được tham gia vào một hệ thống thương mại rộng mở, tự do và bình đẳng, có cơ hội tiếp cận thị trường của toàn bộ 149 nước thành viên. Các doanh nghiệp và hàng hoá của ta sẽ không bị phân biệt đối xử so với doanh nghiệp và hàng hoá của các nước khác theo điều kiện đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Vấn đề lúc này chỉ là việc


các doanh nghiệp và sản phẩm hàng hoá của ta phải tự khẳng định được mình trên thị trường thế giới, điều đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành phải có chiến lược hội nhập hiệu quả ngay từ bây giờ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Khi Việt Nam là thành viên của WTO, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong việc phát triển và mở rộng xuất khẩu trên phạm vi toàn cầu với mức thuế đánh vào hàng nhập khẩu thấp theo cam kết cắt giảm thuế quan của các nước thành viên. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ được hưởng các mức thuế MFN và không bị hạn chế bởi hạn ngạch như hiện nay, đặc biệt là đối với hàng dệt may - một mặt hàng mà Việt Nam phải chịu nhiều thiệt thòi do bị bó buộc bởi hạn ngạch khi chưa là thành viên của WTO. Việt Nam sẽ có cơ hội đẩy nhanh xuất khẩu mặt hàng chủ lực này vì hạn ngạch sẽ được xoá bỏ đối với các thị trường hiện còn áp dụng.

Về nhập khẩu, có thể khẳng định với tư cách là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội nhập hàng hoá có chất lượng và giá cả cạnh tranh, do đó người Việt Nam sẽ có lợi trong việc tiêu dùng của mình.Việc nhập khẩu hàng hoá diễn ra dễ dàng sẽ làm cho hoạt động sản xuất-kinh doanh thuận lợi hơn đối với các doanh nghiệp phải nhập khẩu công nghệ và nguyên liệu đầu vào.

Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu - 8

3.1.2 Thúc đẩy cải cách trong nước

Việt Nam hội nhập quốc tế từ xuất phát điểm thấp nên năng lực kinh tế thấp, sức cạnh tranh yếu, luật pháp còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Do đó, một điều tất yếu là khi tham gia sân chơi toàn cầu, Việt Nam sẽ phải nỗ lực cải cách mọi mặt trong nước, từ kinh tế, thương mại, xã hội cho đến pháp luật... Gia nhập WTO - một bước hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, vào thương mại toàn cầu – sẽ là động lực thúc đẩy quá trình cải cách diễn ra mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới mở cửa thị trường.


Trên thực tế, để trở thành thành viên WTO, Việt Nam đã và đang phải tiến hành hoàn thiện và đổi mới chính sách, thể chế theo chuẩn mực WTO. Việt Nam đã đưa ra danh mục sửa đổi, bổ sung và ban hành với 36 văn bản, bao gồm luật và pháp lệnh có liên quan đến quá trình gia nhập WTO như: Luật thương mại, Luật cạnh tranh, Luật đầu tư, Pháp lệnh chống bán phá giá…

3.1.3 Tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ vào sản xuất và sự lựa chọn nguyên vật liệu đầu vào

Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội để Việt Nam tiếp cận với những thành quả của cuộc cách mạng công nghệ đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất

Khi tham gia WTO, tham gia thị trường toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được tiếp cận với những thành quả khoa học công nghệ tiên tiến, thực hiện việc đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách với các nước trên thế giới. Trong quá trình đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài khi họ đem theo vốn, đem theo bí quyết công nghệ sản xuất mới, phương thức tổ chức các kênh phân phối, tiếp thị, cách thức xây dựng thương hiệu, quảng bá nhãn hiệu hàng hoá, sản phẩm…vào Việt Nam thì các doanh nghiệp sẽ có cơ hội học hỏi và tiếp thu.

Ngoài ra, là thành thành viên WTO, mức thuế nhập khẩu sẽ giảm theo lộ trình của WTO, điều này sẽ giúp cho việc nhập khẩu dễ dàng hơn, nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất sẽ đa dạng hơn với chi phí và chất lượng hợp lý.

3.1.4 Thúc đẩy sự phát triển của thương mại dịch vụ

Dịch vụ là một ngành kinh tế quan trọng, các nước công nghiệp phát triển coi dịch vụ là thước đo trình độ phát triển kinh tế. Ở Mỹ, dịch vụ chiếm 80% trong khi công nghiệp chỉ chiếm 18% GDP, còn ngư nghiệp và nông


nghiệp chỉ chiếm 2% GDP. Ngành dịch vụ của EU chiếm từ 60% đến 70% GDP, tuỳ theo các nước thành viên. Sau khi trở thành thành viên của WTO, Trung Quốc được hưởng nhiều lợi ích từ sự phát triển của ngành dịch vụ, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông và dịch vụ chuyên môn các công ty nước ngoài đưa vào trong nước.Trong khi đó, các ngành dịch vụ của Việt Nam lại chưa phát triển (chỉ chiếm trên 39% GDP năm 2003).

Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải cam kết đảm bảo cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ nhất định. Điều đó sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trong nước không ngừng đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh doanh, cải thiện chất lượng dịch vụ, cạnh tranh giá cả và tạo điều kiện cho các sáng kiến cải tiến sản phẩm và phân phối dịch vụ ra đời để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Sức ép của hội nhập khi hàng rào bảo hộ giảm dần sẽ buộc các doanh nghiệp và các ngành sản xuất trong nước phải điều chỉnh cơ cấu lại để có thể củng cố khả năng cạnh tranh và đứng vững được trên thị trường trong nước cũng như tại các thị trường xuất khẩu.

3.1.5 Thu hút vốn đầu tư nước ngoài

Trong những năm qua, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài luôn chứng tỏ là một trong những động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp và xuất khẩu của nước ta. Đầu tư nước ngoài chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu, giải quyết việc làm cho hơn 70 vạn lao động và hàng chục nghìn lao động gián tiếp. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài góp phần chủ yếu vào chuyển giao công nghệ, đầu tư và nghiên cứu phát triển ở Việt Nam. Sự xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có tác động dây chuyền tích cực, như tăng mức độ cạnh tranh trên thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoặc các nhà quản lý doanh nghiệp trong nước học hỏi thêm kinh nghiệm về quản lý, cách thức tổ chức sản xuất…


Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải tuân thủ hoàn toàn hiệp định TRIMs của WTO. Với hai nguyên tắc là minh bạch và dễ dự đoán, các chính sách của chính phủ sẽ phải đảm bảo tạo môi trường thuận lợi và hấp dẫn hơn như dành sự đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, không đòi hỏi tỷ lệ nội địa hoá hay tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc, bãi bỏ một số hạn chế với đầu tư nước ngoài, bỏ bớt những độc quyền nhà nước hay độc quyền doanh nghiệp… Do đó, sẽ tạo tâm lý yên tâm tin tưởng cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào Việt Nam.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng sẽ nhận được nhiều sự hỗ trợ về tài chính, tín dụng, và viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và chính phủ nước ngoài. Việc cam kết mở cửa thị trường dịch vụ cũng sẽ kéo theo một làn sóng đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành kinh tế như phân phối, bảo hiểm, ngân hàng, vận tải viễn thông…

3.1.6 Nâng cao thế và lực của Việt Nam trong đàm phán và giải quyết tranh chấp

WTO là diễn đàn thương mại mà ở đó mọi thành viên có quyền tự bảo vệ mình khi xảy ra tranh chấp thương mại. Ông Mike Moore, cựu tổng giám đốc WTO cho rằng: “Gia nhập WTO không chỉ để mở rộng thị trường buôn bán hơn nữa, mỗi quốc gia sẽ có một khuôn khổ để tự bảo vệ mình. Đó là cơ sở giải quyết tranh chấp thương mại mà không dựa vào các hiệp định song phương, hiệp định khu vực”. WTO là hệ thống kinh tế - thương mại dựa trên nguyên tắc chứ không phải sức mạnh, do đó sẽ làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh dễ dàng hơn với tất cả các nước thành viên, và Việt Nam sẽ không là ngoại lệ. WTO có cơ chế giải quyết tranh chấp tạo điều kiện để các nước nhỏ bảo vệ được lợi ích của mình hoặc có nhiều tiếng nói hơn.

Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) được thành lập trong khuôn khổ WTO khuyến khích và cho phép các nước thành viên đàm phán để đi đến một biện pháp hoà giải. Nếu thất bại, một ban giải quyết tranh chấp sẽ được thành


lập để phân xử và nhờ một cơ quan kháng án đưa ra quyết định cuối cùng (Uỷ ban kháng nghị). Tất cả các phán quyết cuối cùng này phải được các bên liên quan chấp thuận. Nếu kết quả giài quyết tranh chấp không được thi hành nghiêm túc, bên có quyền lợi bị vi phạm có thể áp dụng các biện pháp trả đũa. Việc thiết lập toà án quốc tế này đã làm cho hiệu quả của hệ thống thương mại đa biên được nâng cao đáng kể. Nó đã đưa ra những luật lệ vào thế giới thương mại, một thế giới mà trước đây những nước yếu không đủ sức kháng cự lại những nước mạnh. Giờ đây những nước yếu như Việt Nam có quyền thương lượng và khiếu nại một cách công bằng hơn với các cường

quốc thương mại trong tranh chấp dựa trên những luật lệ công chung.

Chẳng hạn như nếu Việt Nam đã là thành viên của WTO thì vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa đã có thể kiện lên WTO để giải quyết; khi đó các phán quyết có thể công bằng hơn so với phán quyết đơn phương của Hoa Kỳ như vừa qua. Hay trong trường hợp của Brazil kiện Mỹ trợ cấp bông, hai nước không giải quyết đựơc, đưa lên WTO và Brazil đã thắng. Hoặc đối với trường hợp của Trung Quốc, năm 2003 đã dựa vào WTO để kiện thành công Mỹ khi nước này nâng thuế nhập khẩu thép để bảo vệ ngành thép.

Ngoài ra, gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có địa vị bình đẳng với các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu nhằm thiết lập một trật tự kinh tế công bằng, trong việc đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp và đất nước mình. Điều này có ý nghĩa to lớn, giúp doanh nghiệp tránh hoặc giải quyết thuận lợi các cuộc tranh chấp thương mại theo nguyên tắc WTO, không còn bị thiệt thòi như trước đây. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được bảo vệ tốt hơn nhờ hệ thồng giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả trong WTO. Chẳng hạn như với tư cách là thành viên WTO, doanh nghiệp có thể kiến nghị Chính phủ về mức gây phương hại của hàng nhập khẩu để thực hiện áp dụng thuế đối kháng hoặc chống bán phá giá theo quy định của Hiệp định về chống bán phá giá và thuế đối kháng; thực hiện


điều tra để áp dụng thuế chống trợ cấp hàng hoá nhập khâủ vào Việt Nam; áp dụng các biện pháp tự vệ trong trường hợp nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam quá mức gây thiệt hại cho sản xuất trong nước…

3.1.7 Phát huy được lợi thế so sánh quốc gia, đưa hoạt động xuất nhập khẩu phát triển cả vể bề rộng lẫn bề sâu

Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ có cơ hội tăng cường vị thế quốc tế, bảo vệ quyền lợi của mình trong việc tham gia xây dựng những quy định, luật lệ của WTO và bình đẳng với tất cả 149 thành viên WTO. Việt Nam cũng được tham gia các cuộc đàm phán đa phương, giải quyết các nhu cầu về thị trường vì quyền lợi chính đáng của mình. Như vậy, Việt Nam có điều kiện, cơ hội đóng góp tiếng nói vì lợi ích của các nước đang phát triển nhằm xây dựng các quy định, luật lệ của WTO công bằng, phù hợp tránh sự áp đặt đơn phương, những quy định bất bình đẳng, ngoại lệ về xã hội, kinh tế và môi trường. Việt Nam cũng có thể nắm bắt tốt hơn các xu thế quốc tế cũng như sự điều chỉnh chính sách kinh tế thương mại của các nước khác, từ đó xác định được hướng điều chỉnh phù hợp với tiến trình chung và khai thác triệt để những cơ hội có lợi nhất cho mình.

Tóm lại, tham gia WTO tạo cơ hội cho Việt Nam nâng cao vị thế của mình trong mắt bạn bè quốc tế, giành được sự tôn trọng hơn từ các đối tác thương mại và thực sự bình đẳng với các đối tác trong quan hệ hợp tác kinh tế; nhờ đó phát huy được lợi thế so sánh quốc gia để đưa hoạt động thương mại của Việt Nam ngày càng phát triển.

3.2 Tác động không thuận lợi đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam

3.2.1 Sửa đổi và hoàn thiện hệ thống pháp luật phủ hợp với tiêu chuẩn quốc tế

Để tham gia WTO, Việt Nam không những phải hoàn thiện khung pháp luật đáp ứng điều kiện của một nước thành viên mà còn phải nghiêm túc thực


hiện cam kết đó. Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế sẽ không thể tránh khỏi nhiều điểm xung đột giữa hệ thống luật hiện tại với hệ thống luật quốc tế. Hệ thống pháp luật, chính sách quản lý, đặc biệt là pháp luật về kinh tế thương mại của nước ta còn thiếu nhiều, chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, và thông thoáng để đảm bảo một môi trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.

Để đáp ứng các yêu cầu trên, Chính phủ Việt Nam đã đề ra Chương trình xây dựng pháp luật để gia nhập WTO với hai phần: luật phục vụ của các nước thành viên WTO (bắt buộc) như: Luật cạnh tranh, Luật thương mại, Luật đầu tư (không phân biệt đầu tư trong hay ngoài nước), sở hữu trí tuệ…và luật về quyền của các nước thành viên (không bắt buộc) như Pháp lệnh chống bán phá giá, Pháp lệnh chống trợ cấp… Để các văn bản pháp luật được xây dựng đúng thời hạn, tạo ra các chế tài hiệu quả để vừa thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - thương mại vừa đảm bảo thực hiện các cam kết WTO cần sự nỗ lực rất lớn của các cơ quan chính phủ và sự đóng góp tích cực của các cơ quan liên quan cũng như tất cả người dân.

3.2.2 Nguy cơ mất thị phần, thị trường và sức cạnh tranh của hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam

Gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá, tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường các nước thành viên WTO nhờ tư cách thành viên của WTO, do đó thị trường xuất khẩu và không gian thương mại được mở rộng. Tuy nhiên, xuất khẩu vào các thị trường trọng điểm, nhất xuất khẩu các mặt hàng thế mạnh của Việt Nam, như: dệt may, da giày... ra thị trường nước ngoài cũng sẽ bị cản trở khi gặp phải những hàng rào kỹ thuật. Hoặc những mặt hàng nông sản hay công nghiệp chế biến có thể bị hạn chế bởi các biện pháp kỹ thuật hoặc những tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm... Tuy nhiên nếu nhìn về dài hạn thì điều này lại có tác dụng tích cực, bởi đó sẽ là động lực buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải cải thiện

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 11/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí