Quan Điểm, Mục Tiêu Và Định Hướng Phát Triển Hoạt Động Xuất Nhập Khẩu Của Việt Nam Trong Thời Gian Tới


chất lượng sản phẩm phù hợp với các tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế, qua đó gián tiếp nâng cao năng lực cạnh tranh.

Không những các doanh nghiệp phải cạnh tranh trên các thị trường xuất khẩu mà còn phải cạnh tranh trên chính “sân nhà”, bởi gia nhập WTO cũng có nghĩa là các thành viên WTO cũng sẽ có cơ hội thúc đẩy bán hàng, xuất khẩu hàng hoá vào Việt Nam. Theo lộ trình gia nhập WTO, Việt Nam (cũng như bất kỳ quốc gia hay vùng lãnh thổ nào khác muốn gia nhập WTO) sẽ phải cắt giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế quan, áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia đối với các doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường Việt Nam. Do vậy, khi thị trưòng được mở cửa, doanh nghiệp nước ngoài sẽ được tự do tham gia kinh doanh, buôn bán hàng hoá và cung cấp dịch vụ như doanh nghiệp trong nước mà không bị phân biệt đối xử. Các doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh do có thêm nhiều người cung cấp thêm dịch vụ, hàng hoá và họ lại có tiềm lực tài chính mạnh hơn, hàng hoá chất lượng tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, phân phối và tiếp thị tốt hơn, do đó dễ giành ưu thế hơn doanh nghiệp trong nước.

Trong cuộc cạnh tranh giành thị phần thì khu vực dịch vụ sẽ phải cạnh tranh mạnh mẽ hơn. Việt Nam đã cam kết mở cửa 10 ngành dịch vụ với 92 phân ngành nên chắc chắn sư thu hút nhiều hơn nữa các đối tác nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường. Các nước công nghiệp phát triển chủ yếu chú trọng đến các lĩnh vực mà hiện nay nhà nước còn nắm giữ, chưa mở cửa nhiều hoặc các lĩnh vực còn nhiều tính độc quyền như ngân hàng, viễn thông… Đây cũng là những lĩnh vực mà thị trường nội địa có nhiều tiềm năng phát triển, đem lại lợi nhuận cao và đây cũng là những lĩnh vực mà các doanh nghiệp nước ngoài có ưu thế cạnh tranh.

Hiện nay sự đóng góp của các ngành dịch vụ trong nền kinh tế của các nước trên thế giới nói chung và các nước thành viên WTO nói riêng là rất lớn. trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ, vốn ít,


khả năng cạnh tranh không cao và vẫn còn tư tưởng trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước, nên sẽ gặp không ít khó khăn trong cuộc chiến với các doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường nội địa. Do vậy, nếu các doanh nghiệp Việt Nam không đổi mới và cải tiến mẫu mã, nâng cao chất lượng hàng hoá và phương thức quảng bá, marketing sản phẩm thì khi gia nhập WTO, nguy cơ bị chiếm thị phần, thị trường là rất lớn.

3.2.3 Thực hiện bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT)

SHTT đang ngày càng trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, bởi hiện tượng xâm phạm QSHTT ở nước ta xảy ra tràn lan với nhiều loại sản phẩm, hàng hoá. Từ tháng 1/2000 đến tháng 6/2003, lực lượng quản lý thị trường trong cả nước đã xử lý khoảng 1500 vụ hàng giả có yếu tố xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, chủ yếu là liên quan đến nhãn hiệu hàng hoá và kiểu dáng công nghiệp. Việc xâm phạm tác quyền thậm chí còn diễn ra phổ biến hơn với nạn sao chép lậu xảy ra với nhiều loại hình như: sách báo, phim ảnh…đặc biệt nhất là phần mềm máy tính.

Khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải thực hiện QSHTT theo hiệp định về những vấn đề liên quan đến thương mại của QSHTT (Hiệp định TRIPs). Đây là hiệp định đa phương tổng thể nhất về lĩnh vực sở hữu trí tuệ được áp dụng đối với các nước là thành viên WTO. Các đối tượng điều chỉnh của Hiệp định này bao gồm: bản quyền và các quyền có liên quan; nhãn hiệu hàng hoá; chỉ dẫn địa lý; kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp; bảo hộ thông tin bí mật và hạn chế các hoạt động chống cạnh tranh trong các hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Cam kết bảo hộ SHTT thực sự là một cản trở đáng kể đối với Việt Nam trong việc tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật. Đồng thời, những khó khăn trong chi phí chuyển giao công nghệ và bản quyền có ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp trong tiến trình đổi mới đưa các doanh nghiệp hội nhập vào thị trường quốc tế. Trong hàng trăm các nước nghèo, chỉ có vài


Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đến hoạt động xuất nhập khẩu - 9

nước tập trung ở châu Á đã thành công trên con đường tìm kiếm thịnh vượng, chủ yếu thông qua chiến lược cóp nhặt, đuổi theo, và bắt kịp công nghệ phương Tây.


CHƯƠNG III:‌‌

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU THỰC HIỆN NHỮNG CAM KẾT KHI GIA NHẬP WTO


I. Quan điểm, mục tiêu và định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới

1.1. Quan điểm

1.1.1. Phát triển xuất nhập khẩu phải gắn với phát triển sản xuất, đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội, phát triển bền vững:

- Hoạt động xuất - nhập khẩu phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu cơ bản để định hướng phát triển và là tiêu chuẩn để đánh giá kết quả.

- Kết quả hoạt động xuất - nhập khẩu thông qua kết quả sản xuất và phục vụ sản xuất, đời sống và đóng góp trực tiếp vào GDP của nền kinh tế quốc dân.

- Hướng hoạt động xuất - nhập khẩu vào phục vụ yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển và cải thiện đời sống nhân dân.

- Tránh khuynh hướng chạy theo lợi nhuận đơn thuần, xây dựng định hướng chiến lược và lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm trọng tâm.

- Đảm bảo thúc đẩy sản xuất phát triển có hiệu quả, bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu dùng, chống buôn lậu trốn thuế.

1.1.2. Phát triển xuất - nhập khẩu phải dựa trên sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN

- Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước là: phát triển xuất - nhập khẩu nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.


- Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất - nhập khẩu nhằm khai thác lợi thế và sức mạnh tổng hợp, tạo ra sức cạnh tranh, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng.

1.1.3. Thực hiện tự do hoá, gắn thị trường trong nước và nước ngoài:

- Khai thác thị trường trong nước và nước ngoài để định hướng sản xuất hàng hoá.

- Mặt khác, cần củng cố thị trường đã có và khai thác mở rộng thị trường mới, đặc biệt là thị trường trọng điểm có khối lượng xuất khẩu lớn. Tăng thu ngoại tệ, nhập công nghệ tiên tiến, nâng sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước…

1.2. Mục tiêu và định hướng

1.2.1 Xuất khẩu

Trong những nỗ lực nhằm phát huy tối đa lợi thế cạnh tranh cho phát triển xuất khẩu, thúc đẩy nhanh chóng sự nghiệp CNH, HĐH sau gia nhập WTO, Việt Nam cần phấn đấu hoàn thành vượt mức mục tiêu xuất khẩu đề ra trong Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn từ năm 2006 - 2010 đã được Thủ tướng phê duyệt. Theo đó, phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng và sản phẩm dịch vụ có lợi thế cạnh tranh đồng thời tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả sản xuất. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô.

- Phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 68-69 tỷ USD vào năm 2010, và 259 tỷ USD trong 5 năm 2006-2010, tốc độ tăng 16%/năm và gấp 2,3 lần so với 5 năm trước.


- Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân 17,5%/năm và đến năm 2010 đạt khoảng 72,5 tỷ USD.

Đến năm 2010, xuất khẩu các mặt hàng nông - lâm - thủy sản chiếm khoảng 13,7%, nhóm hàng nhiên liệu - khoáng sản chiếm khoảng 9,6%, nhóm hàng công nghiệp và công nghệ cao chiếm khoảng 54,0% và nhóm hàng hóa khác chiếm 22,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Về cơ cấu địa lý, xuất khẩu hàng hóa sang thị trường châu Á chiếm khoảng 45,0%, thị trường châu Âu chiếm khoảng 23%, thị trường châu Mỹ chiếm khoảng 24%, thị trường châu Đại Dương chiếm khoảng 5,0% và các thị trường khác chiếm khoảng 3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Trong 5 năm tới đây, Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục xác định khu vực châu Á - Thái Bình Dương là thị trường trọng điểm, lấy thị trường Trung Quốc làm hạt nhân với mục tiêu duy trì tăng trưởng dương trong suốt thời kỳ; các mặt hàng dầu thô, cao su, rau quả sẽ là những mũi nhọn xuất khẩu vào thị trường đầy tiềm năng này. Đối với Nhật Bản, sẽ cố gắng nâng tỷ trọng xuất khẩu từ 14,4% hiện nay lên 17- 18% với các mặt hàng dệt may, thủy sản và đồ gỗ.

Khu vực châu Âu sẽ được xác định trên cơ sở chia thành 2 thị trường lớn là Tây Âu và Đông Âu, trong đó Tây Âu vẫn sẽ là chủ yếu với các mặt hàng dệt may và giày dép. Khu vực Bắc Mỹ sẽ được coi là thị trường có khả năng tăng trưởng cao nhất với các chính sách hợp tác thương mại hợp lý. Từ đó tiến tới cân bằng xuất khẩu - nhập khẩu vào những năm đầu sau năm 2010.

Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, dự kiến của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu (không kể dầu thô) trong 5 năm tới là 106,5 tỷ USD, tăng 22,3%/năm.

Nhiệm vụ phát triển các nhóm và mặt hàng chủ yếu cụ thể như sau:

- Nhóm nguyên, nhiên liệu (dầu thô, than đá): dự kiến lượng xuất khẩu sẽ tăng chậm. Lượng xuất khẩu dầu thô thời kỳ 2006-2010 đạt khoảng 87 triệu tấn, than đá 52 triệu tấn.


- Nhóm hàng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su…) đang chiếm gần 28% kim ngạch xuất khẩu sẽ tập trung thúc đẩy phát triển những sản phẩm lợi thế có năng suất cao; đảm bảo chất lượng quốc tế và giá trị gia tăng cao và sẽ lấy thủy sản làm hạt nhân bởi tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thế giới lại tăng khá ổn định. Thời kỳ 2006- 2010, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước có xu hướng giảm dần và đến năm 2010 là 24,1%. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản giai đoạn tới sẽ tăng 12,8%/năm, năm 2010 là 5,0 tỷ USD. Dự kiến lượng gạo xuất khẩu không tăng so với thời kỳ trước, giữ ở mức 4 triệu tấn/năm, và xuất khẩu 0,9 triệu tấn năm 2010. Dự kiến xuất khẩu chè tăng 8,1%/năm, năm 2010 đạt 130 nghìn tấn. Xuất khẩu cao su dự kiến đạt tốc độ tăng 7,7%/năm, năm 2010 đạt 0,85 triệu tấn. Phấn đấu đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hạt điều đạt 1 tỷ USD, hạt tiêu 300 triệu USD, tăng tương ứng là 14,7%/năm và 14,8%/năm.

- Nhóm sản phẩm chế biến và chế tạo (dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, dây điện và cáp điện, cơ khí đóng tàu, thực phẩm chế biến…) vẫn sẽ coi dệt may và giày dép là chủ đạo. Ngoài ra, cũng cần tăng cường phát triển xuất khẩu các mặt hàng mới như đóng tàu biển, các sản phẩm cơ khí, điện; các sản phẩm có nhiều tiềm năng như thủ công mỹ nghệ; thực phẩm chế biến; sản phẩm gỗ; hoá phẩm tiêu dùng; sản phẩm nhựa...

Dự kiến xuất khẩu dệt may 2006-2010 tăng 15,6%/năm, năm 2010 khoảng 10 tỷ USD; giày dép tăng 16,4%/năm, năm 2010 khoảng 6,5 tỷ USD.

Sản phẩm gỗ là nhóm hàng cần được khuyến khích, đẩy mạnh xuất khẩu trong những năm tới. Dự kiến giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ nước ta sẽ tăng 26,2%/năm, năm 2010 đạt 5 tỷ USD.

Dự kiến tốc độ tăng của nhóm hàng điện tử, vi tính và linh kiện khoảng 23%/năm, năm 2010 đạt kim ngạch 4 tỷ USD. Dự kiến kim ngạch sản xuất, gia công phần mềm đạt trên 600 triệu USD vào năm 2010.


- Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ cả nước bình quân dự kiến đạt 16,3%/năm và đến năm 2010 đạt khoảng 12 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ dự kiến đạt khoảng 8 tỷ USD vào năm 2010 và khoảng 34- 35 tỷ USD cả giai đoạn 2006-2010, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực dịch vụ có khả năng thu ngoại tệ như du lịch, sửa chữa tàu biển, xuất khẩu lao động và chuyên gia.

1.2.2 Nhập khẩu

Mục tiêu nhập khẩu trong giai đoạn 5 năm tới là: kiềm chế nhập siêu, phấn đấu tiến tới cân bằng hợp lý cán cân xuất - nhập khẩu. Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến; giữ thế chủ động trong nhập khẩu, tập trung vào nhập thiết bị hiện đại từ các nước có công nghệ nguồn; giảm nhanh và tiến tới hạn chế nhập thiết bị công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ trung gian; hạn chế nhập khẩu hàng hoá vật tư thiết bị cũng như hàng tiêu dùng trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được. Các nhóm hàng nhập khẩu được ưu tiên cho vật tư, thiết bị và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa hoặc sản xuất hàng xuất khẩu, trong khi đó xăng dầu, phân urê, phôi thép sẽ là những mặt hàng được quan tâm để ngày càng giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài.

Tốc độ tăng nhập khẩu đạt khoảng 14,7%/năm, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá tăng từ 36,9 tỷ USD năm 2005 lên 73,5 tỷ USD năm 2010 và 286,5 tỷ USD trong cả 5 năm.

Định hướng các mặt hàng nhập khẩu như sau:

- Nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng gồm các loại như ô tô, linh kiện ô tô, xe máy và các loại máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng phục vụ sản xuất. Cần ưu tiên nhập khẩu của các nước phát triển có nền công nghiệp chế tạo tiên tiến. Chú trọng dây chuyền công nghệ vừa đáp ứng được chất lượng, giá cả và điều kiện của Việt Nam. Dự kiến 5 năm tới, kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 93,4 tỷ USD, tăng 15,2%/năm.

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 11/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí