Dự Báo Tình Hình Đầu Tư Nước Ngoài Trong Thời Gian Tới


- Nộp ngân sách nhà nước: đạt khoảng 8,4 tỷ USD.

- Cơ cấu vốn thực hiện theo ngành: vốn FDI thực hiện trong ngành công nghiệp chiếm khoảng 60%, Nông-Lâm-Ngư nghiệp khoảng 5% và dịch vụ khoảng 35%.

- Chú trọng thu hút đầu tư từ các nước G7 có công nghệ cao, đảm bảo phát triển bền vững.

1.3. Dự báo tình hình đầu tư nước ngoài trong thời gian tới

Căn cứ các yếu tố thuận lợi và khó khăn trong bối cảnh tình hình trong nước và thế giới, trên cơ sở tổng hợp một số dự án lớn đang trong quá trình đàm phán từ các địa phương và tình hình triển khai nhanh các dự án được cấp từ năm 2005 đến nay, dự kiến tình hình thu hút vốn ĐTNN trong 2 năm 2008 và 2009 sẽ thu hút vốn đầu tư mới (bao gồm cả tăng vốn mở rộng sản xuất) tương tự như kết quả năm 2007, trong đó chú trọng thu hút các dự án lớn, trọng điểm, sử dụng công nghệ cao và có khả năng tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh.

- Vốn thực hiện: đạt 10 tỷ USD vượt 25%năm 2007 (8 tỷ USD).

- Lao động: 16 vạn người, tăng 6,7% so với năm 2007.

- Nộp ngân sách Nhà nước: 2 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2007.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

2. Định hướng chung

Từ những quan điểm về thu hút FDI, Đảng ta đã đề ra những định hướng chung thu hút FDI:

Tác động của luật đầu tư năm 2005 vào đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - 12

- Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút và sử dụng FDI vào tất cả các lĩnh vực mà pháp luật không cấm, không thuộc lĩnh vực loại trừ vì lý do quốc phòng, an ninh, bao gồm: Sản xuất, dịch vụ phục vụ sản xuất, công nghiệp chế biến, nhất là chế biến nông- lâm- thủy sản, khoáng sản, nguyên - nhiên liệu, sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó ưu tiên đặc biệt cho sản xuất có sử dụng nguyên liệu trong nước và tỷ lệ nội địa hóa cao, các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, dự án phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, kinh doanh xây dựng nhà ở, khu đô thị mới và các ngành, nghề mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.


- Tiếp tục thu hút và mở rộng cho các dự án FDI vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng kinh tế chủ lực; các KCX, KCN, KCNC, KKT; khu du lịch mà chúng ta chưa có điều kiện khai thác,tạo điều kiện, khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết kinh tế trong công nghiệp, dịch vụ, có chính sách thật sự hấp dẫn và tạo điều kiện thật sự thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Dành những ưu đãi tối đa cho FDI vào những vùng và địa bàn mà điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn.

- Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, nhất là các nhà đầu tư, các công ty, các tập đoàn công ty có tiềm năng lớn về tài chính, nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển, tiếp tục thu hút các nhà đầu tư nước ngoài trong khu vực, chú trọng tới khu vực, địa bàn mới có nhiều tiềm năng chưa khai thác mạnh như: Bắc Mỹ, Bắc Âu, Nam Mỹ, v,v tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư về nước.

- Đa dạng hóa các hình thức doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đặc biệt là mở rộng hình thức công ty cổ phần, công ty hợp danh. Tất cả các thành phần kinh tế có đủ điều kiện tham gia vào liên doanh, hợp tác đầu tư trực tiếp với nước ngoài. Khuyến khích mở rộng hơn nữa cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước để tạo ra môi trường cạnh tranh năng động, sôi nổi, lành mạnh, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển trong khuôn khổ pháp luật.

- Trong bối cảnh hiện nay, cần chú ý tới sự thống nhất cao về nhận thức và dư luận xã hội, hoàn thiện nhanh chóng những chính sách cụ thể và cơ chế về tổ chức, điều hành, đẩy mạnh khâu tuyên truyền, phổ biến thông tin, kiến thức, làm thay đổi cách nhìn nhận về vai trò và vị trí của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh hiện nay, tạo sự đồng thuận trong nhận thức, tư tưởng từ đó có sự thống nhất và có quyết tâm hành động trong toàn Đảng, toàn dân, trước hết là các cấp, các ngành, các cơ quan, đoàn thể có liên quan trực tiếp tới hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài,Tăng cường khâu tổ chức, chỉ đạo điều hành để tạo thành những sự thay đổi có tính


căn bản trong chính sách đối với lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Coi trọng và tập trung cải thiện nhanh và đồng bộ môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài, khắc phục tình trạng thiếu nhất quán, thiếu minh bạch và có thể dự đoán được về chính sách và thực thi pháp luật từ trung ương tới địa phương, cơ sở.

3. Định hướng cụ thể trong việc thu hút FDI giai đoạn 2006 - 2010

Chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Mục tiêu và định hướng thu hút đầu tư nước ngoài giai đoạn tới được xác định như sau:

3.1. Định hướng thu hút vốn đầu tư theo ngành

a. Ngành Công nghiệp - Xây dựng:

- Các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng công nghệ nguồn, tiên tiến, hiện đại từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ.

- Công nghiệp phụ trợ: Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên - phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. Để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, cần tạo điều kiện để các dự án sản xuất lắp ráp các sản phẩm công nghiệp nhanh chóng mở rộng quy mô và thị trường tiêu thụ. b. Ngành Dịch vụ:

Ngành dịch vụ là ngành có tiềm năng rất lớn để đầu tư phát triển góp phần quan trọng trong nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như dịch vụ ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chính - viễn thông, y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực dịch vụ khác.

Với định hướng trên, Nhà nước chủ trương tiến hành xem xét, giảm bớt các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài có tính tới các yếu tố hội nhập và toàn cầu hóa theo lộ trình “mở cửa”; tạo bước đột phá


trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng việc xem xét đẩy sớm lộ trình mở cửa đối với một số lĩnh vực dịch vụ, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển hạ tầng. Cụ thể là:

- Khuyến khích mạnh vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành du lịch, y tế, giáo dục - đào tạo. Mở cửa theo lộ trình các lĩnh vực dịch vụ “nhạy cảm” như ngân hàng, tài chính, vận tải, viễn thông, bán buôn và bán lẻ và văn hoá.

- Khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng các phương thức thích hợp gồm BOT, BT để xây dựng cảng biển, cảng hàng không, đường cao tốc, đường sắt, viễn thông, cấp nước, thoát nước,v.v. nhằm góp phần nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng nhanh của nền kinh tế.

c. Ngành Nông - Lâm - Ngư nghiệp:

- Về trồng trọt và chăn nuôi: Khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài áp dụng công nghệ sinh học tiên tiến để tạo ra các cây, con giống có năng suất cao, phẩm chất tốt để đưa vào sản xuất, đảm bảo nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

- Về trồng rừng - chế biến gỗ, đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung vào các dự án sản xuất giống cây có chất lượng, năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu trồng rừng nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ, lâm sản.

- Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho ngành Nông – Lâm – Ngư nghiệp như hệ thống kênh mương, thủy lợi, các nhà máy chế biến, bảo quản thực phẩm sau thu hoạch; góp phần tăng giá trị và chất lượng của sản phẩm.

3.2. Định hướng thu hút vốn đầu tư theo vùng

Trong thời gian tới, dự báo vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi về địa lý - tự nhiên, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm. Để tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, bên cạnh những ưu đãi của LĐT được áp dụng đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, chúng ta phải tăng cường đầu tư xây dựng nhanh cơ


sở hạ tầng kỹ thuật, đường giao thông, điện, nước ở các vùng kinh tế khó khăn bằng nguồn vốn nhà nước, vốn ODA và nguồn vốn tư nhân.

Tập trung thu hút đầu tư, lấp đầy các KCN – KCX – KCNC - KKT đã được Chính phủ phê duyệt góp phần đẩy nhanh việc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Tận dụng những khu vực đất trống, đồi trọc, ít giá trị nông nghiệp để phát triển KCN , xây dựng nhà máy, hạn chế xây dựng KCN – KCX – KCNC - KKT trên đất canh tác nông nghiệp truyền thống.

3.3. Định hướng pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài

Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ 2001 - 2010 đã khẳng định: “Khu vực có vốn ĐTNN là một thành phần kinh tế của đất nước, cùng phát triển, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa’’. Thực tiễn trong những năm qua đã cho thấy, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã phát triển nhanh chóng, hòa trộn cùng các thành phần kinh tế khác tạo thành các khu vực kinh tế hỗn hợp đa dạng. Trên thực tế, khu vực kinh tế ĐTNN đã thâm nhập và trở thành bộ phận hữu cơ của các thành phần kinh tế khác, tạo động lực thúc đẩy quá trình đổi mới, tiếp nhận các công nghệ mới về sản xuất kinh doanh, về tổ chức quản lý cũng như về vốn đầu tư để phát triển.‌

Đến năm 2020, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN và các thành phần kinh tế khác sẽ được phát triển bình đẳng trong cùng một môi trường về kinh tế, thể chế pháp lý, phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế. Trong giai đoạn 2006-2010, thành phần kinh tế có vốn ĐTNN được khuyến khích phù hợp với lộ trình các cam kết quốc tế của Việt Nam như AFTA, BTA, WTO,v.v.

II. Giải pháp đề xuất nhằm phát huy tác động tích cực của Luật Đầu tư năm 2005 vào đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

1. Về phía nhà nước

Như ta đã thấy, LĐT đã có những tác động rất tích cực, góp phần thúc đẩy lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay. Vậy, để có thể tiếp tục phát huy được vai trò của Luật Đầu tư năm 2005 và tăng


cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, việc tiến hành những công việc sau là cần thiết.

1.1. Kiện toàn bộ máy tổ chức, bài trừ tham nhũng, cửa quyền

Theo Luật Đầu tư năm 2005, việc phân cấp quản lý đầu tư được thực hiện rất mạnh mẽ. Chính sự phân cấp quản lý đầu tư này đã xóa bỏ những manh mún, chồng chéo trong việc quản lý đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong các giai đoạn trước đó, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, cho các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đăng ký và triển khai dự án đầu tư. Để có thể thực hiện tốt công tác này, bộ máy nhà nước Việt Nam phải có đủ năng lực để thực hiện công tác quản lý, giám sát một cách hiệu quả. Do đó, việc đầu tiên mà Đảng và Nhà nước ta cần thưc hiện đó là phải triển khai và kiện toàn bộ máy quản lý đầu tư nước ngoài tại các địa phương để đáp ứng yêu cầu phân cấp quản lý đầu tư.

Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra, bài trừ tham nhũng trong các quan chức có thẩm quyền tại các cơ quan có thẩm quyền tại trung ương và địa phương để không gây phiền hà, nhũng nhiễu cho các nhà đầu tư và cho các doanh nghiệp.

1.2. Bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế

Một trong những mục đích cơ bản của việc ban hành LĐT là để bảo đảm các cam kết quốc tế về đầu tư mà Việt Nam tham gia. Việc thực thi LĐT cũng như thực hiện các cam kết quốc tế đã góp phần mở của môi trường đầu tư tại Việt Nam để thu hút vốn đầu tư nước ngoài nói chung và vốn đầu tưu trực tiếp nước ngoài nói riêng. Vì vậy, chúng ta cần phải liên tục rà soát các cam kết của Việt Nam không chỉ trong lĩnh vực đầu tư mà trong tất cả các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Nhờ đó, chúng ta có thể bảo đảm thực hiện các cam kết về đầu tư, về mở cửa thị trường,… đúng theo tiến độ và lộ trình đã cam kết. Có như thế, chúng ta mới có thể giữ được lòng tin của các nhà đầu tư đã và đang thực hiện đầu tư tại Việt Nam và thu hút được sự chú


ý của các nhà đầu tư chưa từng thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam, từ đó, góp phần tăng vốn FDI.

1.3. Tăng cường công tác xúc tiến đầu tư

Việc hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật sẽ là vô nghĩa nếu không có công tác xúc tiến đầu tư. Nếu không có xúc tiến đầu tư, làm sao các nhà đầu tư ở các quốc gia trên thế giới có thể biết đến Việt Nam có một môi trường đầu tư hấp dẫn, với nhiều ưu đãi, hỗ trợ? Kết quả là, những mặt ưu điểm của LĐT sẽ khó có thể phát huy hết tác dụng trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Do đó, Đảng và Nhà nước phải thực hiện các biện pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường phối hợp hoạt động xúc tiến đầu tư (XTĐT) giữa trung ương và địa phương. Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương.

Thứ hai, nhanh chóng ban hành Quy chế phối hợp và triển khai các bộ phận XTĐT ở một số địa bàn trọng điểm. Đổi mới phương thức XTĐT, chuyển mạnh sang hình thức vận động đầu tư theo dự án và đối tác trọng điểm, tiếp cận và vận động các công ty, tập đoàn lớn có thực lực về tài chính - công nghệ cao đầu tư vào Việt Nam. Tổ chức hiệu quả các hội thảo XTĐT ở trong và ngoài nước. Nâng cao chất lượng trang thông tin điện tử về ĐTNN bằng một số ngôn ngữ (các thứ tiếng: Anh, Nhật, Hàn, Trung và Nga,…) đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư.

Thứ ba, triển khai đúng tiến độ việc thực hiện Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình XTĐT quốc gia giai đoạn 2007-2010 để có thể bắt đầu thi hành từ ngày 01/01/2008 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Thứ tư, tăng cường các đoàn vận động XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, EU và Hoa Kỳ) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam.


2. Về phía doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài

Đầu tiên, trước khi quyết định đầu tư và triển khai dự án đầu tư các doanh nghiệp và nhà đầu tư cần phải nghiên cứu để hiểu rõ các quy định của Việt Nam về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thế, họ mới hiểu được những quyền lợi họ được hưởng và nghĩa vụ họ cần phải thực hiện khi tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam.‌

Trong quá trình thực hiện đầu tư, các doanh nghiệp và nhà đầu tư phải liên tục cập nhất những thay đổi về chính sách, pháp luật đầu tư tại Việt Nam để có những điều chỉnh và thay đổi phù hợp với các quy định của pháp luật.

Các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam phải luôn luôn tuân thủ theo quy định của pháp luật Việt Nam để bảo đảm cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền dễ dàng quản lý và kiểm soát.

III. Giải pháp đề xuất nhằm hạn chế tác động tiêu cực của Luật Đầu tư năm 2005 vào đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

1. Về phía nhà nước


1.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật

Có thể nói rằng, phần lớn những tác động tiêu cực của Luật Đầu tư năm 2005 lên đầu tư trực tiếp nước ngoài đều là do những vướng mắc, chồng chéo trong bản thân Luật đầu tư và nghị định hướng dẫn thi hành cùng với các văn bản pháp luật khác có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Do đó, việc hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, là biện pháp cơ bản, cốt lõi để hạn chế những tác động tiêu cực này. Theo đó, chúng ta cần thực hiện những điểm sau:

- Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi, điều chỉnh hoặc loại bỏ những mâu thuẫn, vướng mắc nhằm tạo sự đồng bộ và thống nhất trong hệ thống pháp luật, chính sách. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh.

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 10/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí