Xây Dựng Mô Hình Tác Động Của Chính Sách Tiền Tệ Đến Tính Ổn Định Tài Chính Của Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam.

Ba là, mặc dù không đề cập đến kênh chấp nhận rủi ro như một mục tiêu của luận án nhưng thành quả kênh chấp nhận rủi ro như hiệu ứng truyền dẫn của chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro do Borio và Zhu (2012) và nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác đã kiểm chứng như (Montes và cộng sự, 2014; De Moraes và cộng sự, 2016; Dang & Dang, 2020) đã được sử dụng làm cơ sở giải thích cho cơ chế tác động của chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro. Kết quả sẽ cung cấp thêm bằng chứng góp phần cho những nghiên cứu về kênh chấp nhận rủi ro tại Việt Nam.

2.8 Kết luận chương 2

Trong chương 2, luận án trình bày về cơ sở lý thuyết của chính sách tiền tệ, mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng thương mại, tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại; cũng như lược khảo các nghiên cứu về tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại, tác động của chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại và tác động của mức độ chấp nhận rủi ro đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại. Từ đó đưa ra khoảng trống nghiên cứu của luận án. Đây là tiền đề để phân tích và xây dựng phương pháp nghiên ở chương 3.

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở chương 2 luận án đã trình bày về cơ sở lý thuyết của chính sách tiền tệ, mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng thương mại, tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại; cũng như lược khảo các nghiên cứu về tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại, tác động của chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại và tác động của mức độ chấp nhận rủi ro đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại. Chương 3 sẽ trình bày cụ thể về phương pháp nghiên cứu, quy trình nghiên cứu và mô hình nghiên cứu, trong đó mô tả chi tiết về các biến và cách đo lường các biến trong mô hình nghiên cứu. Đồng thời, trong chương này cũng trình bày rõ cách thức thu thập dữ liệu của nghiên cứu.

3.1 Xây dựng mô hình tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Làm rõ tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Viêt Nam thông qua các nghiên cứu thực nghiệm đi trước cho ta những lý thuyết và bằng chứng để xây dựng mô hình đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam đại diện bởi biến CAR.

Nghiên cứu của Dang & Dang (2020), Mili và cộng sự (2017) đã chỉ ra bằng chứng đáng tin cậy về tác động trái chiều của lãi suất chính sách đến ổn định tài chính. Mili và cộng sự (2017) đã kết luận rằng khi thắt chặt chính sách tiền tệ thông qua việc tăng lãi suất sẽ tác động tiêu cực đến tính ổn định tài chính thông qua hệ số an toàn vốn. Dang & Dang (2020) thông qua kết quả hồi quy GMM để kết luận rằng lãi suất chính sách tăng tác động tiêu cực đến đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Dang & Dang (2020) cũng cho rằng kết quả nghiên cứu trái với lý thuyết về kênh chấp nhận rủi ro. Theo lý thuyết về kênh chấp nhận rủi ro thì lãi suất chính sách giảm (chính sách tiền tệ mở rộng) sẽ dẫn tới giảm tính ổn định tài chính (Borio và Zhu, 2008, 2012; De Moraes và cộng sự, 2016).

Trong nghiên cứu này, chính sách tiền tệ được đo lường dựa trên lãi suất chính sách là lãi suất tái chiết khấu được kế thừa từ nghiên cứu của Dang & Dang (2020). Các biến kiểm soát được lựa chọn theo nghiên cứu của De Moraes và cộng

sự (2016). Mô hình thể hiện tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.

= + + + + + +

+ + + + (mô hình 1)

Tác động của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam thông qua mức độ chấp nhận rủi ro - 10

Trong đó: Hệ số an toàn vốn (CAR); Lãi suất tái chiết khấu (IR); mức dự trữ bắt buộc (R_REG); Tỷ suất sinh lợi (ROA); Tỷ lệ nợ xấu (DEFAULT); Khe hở sản lượng (O_GAP); Khe hở tín dụng (C_GAP); Tỷ số thanh khoản (LIQUID); Hệ số rủi ro (NLTA); Tỷ số tiền gửi (DEPTA).

Giả thuyết về tác động của chính sách tiền tệ đến ổn định tài chính được đặt ra như sau:

Giả thuyết H1-1: Việc thắt chặt/nới lỏng chính sách tiền tệ (tăng/giảm lãi suất) của ngân hàng nhà nước tác động trái chiều đến tính ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

3.2 Xây dựng mô hình tác động của chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Làm rõ mối liên hệ giữa chính sách tiền tệ và mức độ chấp nhận rủi ro thông qua các nghiên cứu thực nghiệm đi trước cho ta những lý thuyết và bằng chứng để xây dựng đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đến dự phòng cho vay đại diện cho mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại.

Tabak và cộng sự (2013) nghiên cứu tác động của chính sách tiền tệ đối với tăng trưởng tín dụng và các khoản nợ xấu trong giai đoạn 2003 - 2009 tại Brazil. Kết quả đã tìm thấy sự tồn tại của một kênh cho vay của ngân hàng thông qua việc các giai đoạn trong thắt chặt/nới lỏng tiền tệ tác động đến dư nợ của các ngân hàng đã giảm/tăng. Hơn nữa, bằng cách phân tích tác động của chính sách tiền tệ đối với các khoản nợ xấu, họ nhận thấy rằng trong thời gian tăng/giảm lãi suất làm các ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng trưởng cao hơn/thấp hơn và cũng làm tăng/giảm hiệu quả hoạt động. Tiếp theo, Altunbas và cộng sự (2014) và Gambacorta (2009) nhấn mạnh đến hai cách trong đó lãi suất thấp có thể ảnh hưởng đến mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng. Trước tiên, lãi suất thấp tác động đến giá trị, thu nhập và dòng tiền, đến lượt mình các nhân tố này có thể ảnh hưởng đến việc ngân hàng đo lường rủi ro

như thế nào (Adrian và Shin, 2009, 2010; Borio và Zhu, 2012). Thứ hai, tỷ suất sinh lợi trên đầu tư thấp do nới lỏng tiền tệ có thể làm gia tăng động cơ cho các ngân hàng, nhà quản lý tài sản và các công ty bảo hiểm tìm kiếm cơ hội kiếm nhiều lợi nhuận hơn mà không cân nhắc đến rủi ro (Brunnermeier, 2001; Rajan, 2005). Montes và Peixoto (2014) tìm thấy bằng chứng cho thấy cả kênh cho vay và kênh chấp nhận rủi ro đều hoạt động trong hệ thống tài chính Brazil. Các ngân hàng phản ứng với chính sách tiền tệ bằng cách thay đổi lượng vốn dự phòng của danh mục cho vay. Trong môi trường chính sách tiền tệ thắt chặt, các ngân hàng chấp nhận rủi ro cao hơn, tăng dự phòng rủi ro cho vay. Ủng hộ quan điểm của Montes và cộng sự 2014, nghiên cứu De Moraes và cộng sự (2016) chứng minh về tác động truyền dẫn của chính sách tiền tệ đến tính ổn định tài chính thông qua mức độ chấp nhận rủi ro, nghiên cứu của Moraes và cộng sự (2016) đã sử dụng cơ sở lý thuyết về kênh chấp nhận rủi ro được Borio và Zhu (2008, 2012) để xây dựng mô hình nghiên cứu, trong đó lãi suất cho kết quả tương tự. Trong bài luận án này, tác giả giả nghiên cứu tác động của chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro được đo lường bằng dự phòng cho vay theo các nghiên cứu của Montes và cộng sự (2014); De Moraes và cộng sự (2016); Zheng và cộng sự (2019). Mô hình nghiên cứu được xây dựng cụ thể như sau:

= + + + + + + ( mô


hình 2)


Trong đó: Dự phòng cho vay (PROV); Lãi suất tái chiết khấu (IR); Mức dự

trữ bắt buộc (R_REG); Khe hở sản lượng (O_Gap); Tỷ lệ nợ xấu (DEFAULT); Tỷ suất sinh lợi trên tài sản (ROA).

Trong mô hình (2) được nêu ở trên, lãi suất tái chiết khấu (IR) là yếu tố được sử dụng để đo lường tác động của chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro (PROV) theo các nghiên cứu của Montes và cộng sự (2014); De Moraes và cộng sự (2016); Zheng và cộng sự (2019).

3.2.1 Đo lường mức độ chấp nhận rủi ro.

Dự phòng cho vay đại diện cho các khoản lỗ kỳ vọng do ngân hàng thiết lập dựa trên ước tính rủi ro các khoản cho vay của mình. Biến số này đại diện cho chấp nhận rủi ro của ngân hàng (Montes và Peixoto, 2014; De Moraes và cộng sự, 2016).

Nghiên cứu của Montes và cộng sự (2014) đã sử dụng dự phòng cho vay đại diện cho mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng thương mại tại Brazil trong nghiên cứu về tác động của chính sách tiền tệ thông qua kênh chấp nhận rủi ro, tương tự Zheng và cộng sự (2019) trong nghiên cứu về dự phòng cho vay và hành vi chấp nhận rủi ro tại Pakistan đã dùng PROV làm biến phụ thuộc.

Biến PROV trong bài nghiên cứu này dựa trên cách đo lường đã được tính toán bởi Montes và Peixoto (2014); De Moraes và cộng sự (2016); Zheng và cộng sự (2019) như sau:

Các nghiên cứu của Montes và cộng sự 2014 De Moraes và cộng sự 2016 đều 21

Các nghiên cứu của (Montes và cộng sự, 2014; De Moraes và cộng sự, 2016) đều tìm thấy mối liên hệ giữa chính sách tiền tệ và mức độ chấp nhận rủi ro, cụ thể cả hai nghiên cứu đều thực hiện tại thị trường Brazil và cho kết quả cho thấy khi ngân hàng Trung ương áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng (hạ lãi suất) sẽ làm các ngân hàng giảm dự phòng cho vay đồng nghĩa với việc giảm mức độ chấp nhận rủi ro. Trong bài luận này, tác giả mong đợi tìm thấy tác động của chính sách tiền tệ của NHNN đến mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng.

3.2.2 Đo lường yếu tố đại diện cho chính sách tiền tệ.

Lãi suất tái chiết khấu (IR)


Ở Việt Nam lãi suất cơ bản ổn định trong thời gian dài vì vậy sử dụng các mức lãi suất này sẽ không đánh giá được tác động thực sự của chính sách tiền tệ (Dang & Dang, 2020).

Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất áp dụng cho các nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi. Đây chính là lãi suất cho vay ngắn hạn của Ngân hàng Trung ương đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tái chiết khấu các giấy tờ có giá chưa đến thời hạn thanh toán, được ấn định cho từng thời kỳ, căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ. Lãi suất này được dùng để kiểm soát và điều tiết sự biến động lãi suất trên thị trường. Đối với ngân hàng thương mại lãi suất tái chiết khấu là lãi suất gốc để từ đó ấn định lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay khác. Lãi suất tái chiết khấu áp dụng đối với các giấy tờ có độ rủi ro thấp như trái phiếu Chính

Phủ, thương phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn. Có thể sử dụng lãi suất tái chiết khấu như một biến để xem xét tác động của chính sách tiền tệ đến chấp nhận rủi ro (Dang & Dang, 2020).

Từ các lý do đó, trong nghiên cứu này lãi suất tái chiết khấu được xem là đại diện cho chính sách lãi suất của ngân hàng Nhà nước trong việc điều tiết hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.

Mối tương quan dương được kỳ vọng giữa việc thắt chặt CSTT và mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng được đo lường bởi PROV. Các nghiên cứu đã chỉ ra bất cân xứng thông tin (lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức) chính là nguyên nhân chính dẫn đến tác động này (Montes và Peixoto, 2014; De Moraes và cộng sự, 2016), đặc biệt là khi ngân hàng Trung ương giảm lãi suất ngắn hạn (De Moraes và cộng sự, 2016). Soedarmono và cộng sự (2012) nhấn mạnh xác suất rủi ro đạo đức xảy ra ở những thị trường mà trong đó đa phần các doanh nghiệp phụ thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng.

Sử dụng lãi suất tái chiết khấu để đại diện cho CSTT là lựa chọn phản ánh rõ nhất tác động của chính sách tiền tệ đến khả năng chấp nhận rủi ro của các ngân hàng vì bất cứ sự thay đổi lãi suất trong ngắn hạn nào của ngân hàng Nhà nước có thể tác động mạnh đến nhận thức rủi ro của các ngân hàng thương mại hơn những thay đổi trong lãi suất dài hạn. Ngoài ra, các nghiên cứu trước chỉ ra sự thay đổi lãi suất trong ngắn hạn của ngân hàng Nhà nước sẽ là cơ hội cho ảnh hưởng của bất cân xứng thông tin thể hiện rõ lên chính sách tiền tệ và nhận thức rủi ro của các ngân hàng (Montes và Peixoto, 2014; De Moraes và cộng sự, 2016).

Một mối liên hệ cùng chiều giữa lãi suất (đại diện cho chính sách tiền tệ) và dự phòng cho vay đã được tìm thấy trong nghiên cứu của Altunbas và cộng sự (2014), Gambacorta (2009), Jimménez và cộng sự (2014), Montes và Peixoto (2014), De Moraes và cộng sự, (2016).

Từ các kết quả nghiên cứu đi trước, tác giả đặt giả thuyết về tác động của chính sách tiền tệ đến dự phòng rủi ro cho vay (mức độ chấp nhận rủi ro) cho nghiên cứu như sau:

Giả thuyết H2-1: Việc thắt chặt/nới lỏng chính sách tiền tệ (tăng/giảm lãi suất) của ngân hàng nhà nước tác động tới mức độ chấp nhận rủi ro cao/thấp hơn của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

3.2.3 Đo lường các biến kiểm soát mô hình tác động của chính sách tiền tệ đến mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

3.2.3.1 Mức dự trữ bắt buộc.

Mức dự trữ bắt buộc là một công cụ có tác động trực tiếp lên quy mô tín dụng và như vậy có nghĩa là tác động lên tính sẵn sàng đón nhận rủi ro. Mức dự trữ bắt buộc cao hàm ý muốn lực có sẵn để cho vay sẽ ít đi, e ngại rủi ro tăng lên và do đó thắt chặt cung tín dụng, tăng dự phòng cho vay (De Moraes và cộng sự, 2016; Montes &Peixoto, 2014; Tabak và cộng sự, 2011). Các nghiên cứu của De Moraes và cộng sự (2016); Montes &Peixoto (2014) đều cho thấy mối quan hệ thuận chiều giữa tỷ lệ dự trữ bắt buộc và dự phòng rủi ro cho vay.

Trong nghiên cứu của De Moraes và cộng sự (2016) thì R_REG được đo lường dựa trên tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên, khi áp dụng tài Việt Nam, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được NHNN quy định chung cho các NHTM và cố định trong thời gian dài (Dang & Dang, 2020). Do đó khi đưa vào mô hình không phản ánh đầy đủ ảnh hưởng của dự trữ bắt buộc đến mức bộ chấp nhận rủi ro của từng ngân hàng cũng như tính ổn định tài chính. Tác giả đo lường mức dự trữ bắt buộc là Logarit tự nhiên của tổng tiền gửi mà NHTM gửi tại NHNN, đây là con số phản ánh gần đúng mức dự trữ bắt buộc mà NHTM gửi tại NHNN tuân theo quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Mức dự trữ bắt buộc được đo lường bằng mức tiền gửi mà ngân hàng gửi tại ngân hàng Nhà nước:

R_REG = Ln (Tiền gửi tại NHNN)

3.2.3.2 Khe hở sản lượng.

Tăng trưởng GDP là thước đo tổng quát nhất và trực tiếp nhất cho sự phát triển kinh tế vĩ mô. Nó được coi là chỉ số đầu tiên và quan trọng nhất về nhu cầu dịch vụ ngân hàng, bao gồm cả việc gia hạn các khoản vay và cung cấp vốn, chẳng hạn như tiền gửi. Vì vậy, nó là một yếu tố quyết định trực tiếp đến lợi nhuận. Điều đó có nghĩa, tăng trưởng GDP là chỉ số hữu ích nhất của chu kỳ kinh doanh.

Có quan điểm cho rằng rủi ro tín dụng sẽ gia tăng trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế do bùng nổ cho vay. Do vậy, các nhà quản trị ngân hàng có tầm nhìn sẽ tìm cách ứng phó với rủi ro này bằng cách tăng mức dự phòng ngay trong thời kỳ tăng trưởng tín dụng để ứng phó với rủi ro trong giai đoạn suy giảm sau đó. Điều này phản ánh mối quan hệ cùng chiều giữa tăng trưởng kinh tế và dự phòng (Bikker & Metzemakers, 2005).

Clichici and Colesnicova (2014) cho kết quả về mối quan hệ tích cực giữa GDP, xuất khẩu và tỷ lệ nợ xấu. Perez, Salas-Fumasand Saurina (2006) kết luận rằng các khoản dự phòng chung thường tăng trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng, do các ngân hàng cho vay nhiều hơn và nhu cầu tín dụng cao trong giai đoạn này. Bikker và Metzemakers (2005) nhận thấy các khoản dự phòng tổn thất cho vay cao hơn trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng và thấp hơn trong thời kỳ kinh tế suy thoái.

Điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được cải thiện cho nên khả năng vỡ nợ sẽ giảm trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng. Do đó, các ngân hàng sẽ nới lỏng các điều kiện cho vay trong thời kỳ bùng nổ kinh tế và siết chặt trong thời kỳ suy thoái. Điều này cho thấy hành vi cho vay mang tính đồng chu kỳ với tăng trưởng kinh tế (Laeven và Majnoni, 2003; Bikker và Hu, 2002). Theo quan điểm này, dự phòng sẽ có mối tương quan ngược chiều với chu kỳ kinh tế, nghĩa là dự phòng tăng lên trong thời kỳ suy thoái và giảm đi trong thời kỳ tăng trưởng.

Các nghiên cứu thực nghiệm đã khẳng định mối liên hệ chu kỳ kinh doanh và tín dụng. Quagliariello (2008) phát hiện ra rằng chu kỳ kinh doanh ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ xấu đối với một nhóm các ngân hàng Ý trong giai đoạn 1985 đến 2002. Nghiên cứu được thực hiện cho 207 ngân hàng đưa ra kết luận khi tình hình kinh tế suy thoái, chất lượng các khoản vay của ngân hàng giảm xuống. Cifter, Yilmazer và Cifter (2009), áp dụng mô hình mạng lưới đã cho thấy một tác động của độ trễ sản xuất công nghiệp (sản lượng ngành công nghiệp) đối với nợ xấu trong hệ thống tài chính Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn từ 01/2001 đến 11/2007. Salas và Saurina (2002) tìm thấy tác động tiêu cực của tăng trưởng GDP đối với tỷ lệ nợ xấu.

Ibish Mazreku và cộng sự (2018) tìm thấy một mối quan hệ nghịch biến giữa tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ nợ xấu tại 10 quốc gia từ năm 2006 đến năm 2016 thông qua hồi quy OLS, Fixed – Effects, Random – Effects, GMM, nghiên cứu chỉ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/10/2022