Mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - 2

Trên cơ sở phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp cụ thể như: trừu tượng hóa khoa học, logic- lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh.

6) Những đóng góp mới của luận văn

- Phân tích một cách toàn diện mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam cả trên lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những tác động trái chiều của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới.

7) Bố cục luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài Chương 2: Phân tích mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt

Nam hiện nay

Chương 3: Một số giải pháp hạn chế mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian tới

Chương 1‌‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

Mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - 2

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của ĐTTTNN

a. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài

Theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Khoản 1, Điều 2 (được sửa đổi, bổ sung năm 2000): “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo qui định của luật này”, trong đó nhà đầu tư được hiểu là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Như vậy, theo khái niệm này, đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích thu lợi nhuận.

Dưới góc độ kinh tế chính trị, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức của xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới, hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành chi nhánh của các công ty mẹ ở chính quốc. Đây là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu, quyền sử dụng, quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là họ trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, tổ chức và điều hành các dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận. Mục tiêu của quá trình này là tối đa hóa lợi nhuận cho nhà đầu tư.

b. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài

Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, các yếu tố đầu tư được di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia

Đặc điểm này có nghĩa là FDI gắn liền với việc di chuyển tiền và tài sản giữa các quốc gia. Vì vậy, FDI sẽ làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh tế nước tiếp

nhận, làm giảm lượng tiền và tài sản của nước đi đầu tư. Tài sản ở đây bao gồm tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu…), tài sản vô hình (sáng chế, nhãn hiệu, bí quyết kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý…). FDI không chỉ di chuyển vốn thuần túy, mà còn bao gồm chuyển giao công nghệ, cơ chế bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư về các đối tượng sở hữu.

Do gắn với việc di chuyển tài sản, nên mỗi loại tài sản đòi hỏi nước tiếp nhận có cơ chế, chính sách bảo hộ quyền của chủ đầu tư phù hợp với tính chất đặc thù của từng loại.

Thứ hai, FDI được tiến hành thông qua việc thành lập các doanh nghiệp mới, mua lại các chi nhánh, doanh nghiệp hiện có, hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp.

Điều đó cho thấy hoạt động FDI có thể diễn ra theo nhiều hình thức và phương thức rất đa dạng. Một nước có thể khai thác tính đa dạng của các hình thức và phương thức đầu tư để tăng cường thu hút vốn FDI từ nước ngoài cũng như tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Việc thành lập và phát triển các thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán là điều kiện thúc đẩy sự gia tăng nhanh chóng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Thứ ba, chủ sở hữu đầu tư có thể là người nước ngoài, sở hữu 100% vốn hoặc đồng chủ sở hữu vốn với một tỷ lệ nhất định đủ mức khống chế và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động của doanh nghiệp.

Tỷ lệ sở hữu vốn khống chế này từ 10% trở lên trong tổng số vốn của doanh nghiệp tùy luật pháp của mỗi nước quy định. Đây là yếu tố quyết định đến tính chất trực tiếp của nhà đầu tư nước ngoài trong việc đưa ra các quyết định đầu tư và quản trị doanh nghiệp. Chính vì có sự thay đổi cơ bản về hình thức sở hữu trong FDI nên cần có thể chế bảo hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài rò ràng và chặt chẽ thì mới tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn. Việc bảo đảm tỷ lệ sở

hữu ở mức khống chế còn là cơ sở để các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở thành những chi nhánh của các công ty ở nước đầu tư.

Đặc trưng này là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa FDI với hoạt động thương mại, gia công quốc tế. Trong hoạt động thương mại có sự dịch chuyển sở hữu về hàng hóa hoặc dịch vụ từ người bán sang người mua trên nguyên tắc thỏa thuận. Người mua phải trả tiền cho người bán để có quyền sở hữu về hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ từ người bán. Trong hoạt động gia công quốc tế, một bên thuê bên kia gia công sản phẩm theo đơn đặt hàng, thanh toán tiền công và các khoản chi phí khác theo từng sản phẩm trong từng thời gian ngắn. Thương mại quốc tế ra đời và phát triển trên cơ sở lợi thế so sánh, còn FDI gắn với khả năng khai thác nguồn lực để phát triển. Đặc điểm này làm cho các khoản lợi nhuận thu được từ FDI lớn hơn nhiều so với thương mại quốc tế. Khi đầu tư gắn với thương mại thì lợi nhuận thương mại là một phần lợi nhuận của hoạt động đầu tư được phân phối lại. Do vậy có thể khẳng định rằng, đầu tư quốc tế là sự bổ sung cần thiết cho hoạt động thương mại quốc tế; việc tổ chức hoạt động FDI phải xử lý nhiều vấn đề phức tạp hơn so với hoạt động buôn bán thông thường.

Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia thực hiện, bởi chủ thể hoạt động đầu tư là tư nhân với mục tiêu cơ bản thu lợi nhuận (trừ một số doanh nghiệp nhà nước và một ít đầu tư của chính phủ).

Hoạt động FDI diễn ra khi có thị trường đầu tư có khả năng tạo lợi nhuận cao, nghĩa là có chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận của vốn và chi phí giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư do lợi thế so sánh. Điều này phân biệt FDI và ODA.

Các khoản ODA của các chính phủ gắn với những cam kết và ràng buộc chặt chẽ giữa nước viện trợ và nước nhận viện trợ, chịu sự chi phối đáng kể bởi quan hệ chính trị giữa hai nước. Các pháp nhân và thể nhân đầu tư ODA không thể gây sức ép với nước tiếp nhận phải có những điều chỉnh nhất định về chính sách, thể chế và cả những vấn đề liên quan đến dân chủ, nhân quyền. ODA phần lớn là

vốn vay, nên nếu không được sử dụng có hiệu quả sẽ làm cho nước nhận viện trợ trở thành con nợ quốc tế ngày càng nhiều.

Trong khi đó, FDI ít có khả năng xảy ra tình trạng này vì chủ yếu là đầu tư do doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư và kinh doanh, được tính toán kỹ trước khi quyết định đầu tư. Đồng thời, hoạt động FDI khác với vay tín dụng thương mại theo lãi suất thị trường với những cam kết và thế chấp hết sức nghiêm ngặt, mà không được giám sát chặt chẽ sẽ dẫn đến tình trạng vay tín dụng thương mại để đầu tư, khó có khả năng hoàn vốn, chậm thanh toán nợ, gây ra tình trạng nợ nước ngoài vượt quá giới hạn cho phép.

Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) là những tập đoàn có hệ thống các chi nhánh sản xuất ở nước ngoài, có tiềm lực lớn về vốn, công nghệ cao, nhãn hiệu sản phẩm có uy tín và danh tiếng lớn trên toàn cầu, tính năng động cao, đội ngũ các nhà quản lý có trình độ cao, có khả năng điều hành các hoạt động sản xuất và phân phối trên toàn cầu, có năng lực cạnh tranh cao. Các nước đang phát triển và các doanh nghiệp của họ có thể tiếp cận từ các công ty xuyên quốc gia thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp để thu hút nguồn vốn lớn, công nghệ nguồn, đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ cao, cải thiện năng lực cạnh tranh và năng động hóa các quan hệ giao dịch. Bên nước tiếp nhận ngoài mục tiêu thu hút vốn đầu tư từ nhà đầu tư nước ngoài còn có mục tiêu tiếp nhận kiến thức và kỹ năng quản lý. Kỹ năng quản lý và loại tài sản vô hình cực kỳ quan trọng đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, khía cạnh này tăng thêm tính chất đa phương diện của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các công ty đa quốc gia thường thuộc các nước công nghiệp phát triển, do đó, dòng vốn đầu tư trực tiếp ban đầu xuất phát từ các nước công nghiệp và tạo nên những xu hướng chính trong hoạt động FDI. Các nước đang phát triển khi đã đạt đến trình độ phát triển nhất định, tích lũy được vốn, ngoại hối có thể và cần phải khuyến khích

doanh nghiệp của nước đó đầu tư ra nước ngoài để tham gia ngày càng nhiều vào thị trường đầu tư thế giới.

Thứ năm, các chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia kiểm soát, điều hành quá trình đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp.

Đây cũng là một trong những đặc điểm để phân biệt giữa đầu tư trực tiếp với đầu tư gián tiếp. Trong khi đầu tư gián tiếp không cần sự quản lý của doanh nghiệp, các khoản thu nhập chủ yếu là các cổ tức từ việc mua chứng khoán tại các doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư, ngược lại nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài có quyền tham gia hoạt động quản lý trong các doanh nghiệp FDI. Tuy vậy, nhà đầu tư nước ngoài phải có bao nhiêu phần trăm cổ phần mới được phép tham gia quản lý doanh nghiệp FDI? Theo hướng dẫn của OECD và Bộ thương mại Hoa Kỳ thì nhà đầu tư nước ngoài phải chiếm tối thiểu 10% cổ phiếu thường hoặc quyền bỏ phiếu trong các doanh nghiệp FDI để cho các nhà đầu tư có tiếng nói hay tham gia quản lý trong các doanh nghiệp FDI.

Việc điều hành và trực tiếp ra quyết định đầu tư là điều kiện để nhà đầu tư thực hiện được chiến lược kinh doanh của họ một cách chủ động và tối ưu. Tuy nhiên, trên thực tế thường nảy sinh khoảng lệch giữa mục tiêu thu hút vốn đầu tư của chính phủ với chiến lược kinh doanh của nhà đầu tư, do mục tiêu của chính phủ với mục tiêu của nhà đầu tư đã không phù hợp với nhau. Chẳng hạn, mục tiêu ưu tiên hàng đầu của chính phủ là việc làm và đẩy mạnh xuất khẩu, trong khi một số nhà đầu tư chỉ coi trọng việc thu lợi nhuận tối đa và chiếm lĩnh thị trường trong nước. Chính phủ nước tiếp nhận đầu tư muốn hướng FDI vào các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng như đường sá, sân bay, bến cảng… với lượng vốn đầu tư rất lớn, tỷ suất lợi nhuận thấp và thời gian thu hồi vốn khá dài; trong khi các nhà đầu tư thường chú trọng các dự án có thời hạn đầu tư ngắn và tỷ lệ thu hồi vốn cao… Đặc điểm này đòi hỏi chính phủ nước tiếp nhận đầu tư chủ

động quy hoạch phát triển các ngành, các vùng và có các chính sách hấp dẫn phù hợp với từng ngành, lĩnh vực để thu hút FDI.

Thứ sáu, xu hướng chuyển dịch FDI thường từ những nước phát triển sang các nước đang phát triển

FDI ban đầu do các công ty xuyên quốc gia của các nước, công nghiệp phát triển đầu tư vào các nước thuộc địa để khai thác nguyên liệu, thị trường tiêu thụ và nguồn lao động rẻ… Do đó, khái niệm FDI chủ yếu được sử dụng để chỉ sự vận động của vốn từ các nước chính quốc sang các nước thuộc địa; từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển. Sau đó, xuất hiện các hoạt động đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển với nhau và tiếp đó là dòng vốn di chuyển từ các nước đang phát triển ra nước ngoài, kể cả sang các nước công nghiệp phát triển để khai thác tính không hoàn hảo của thị trường. Hai dòng di chuyển vốn vào và ra này khác nhau về chiều hướng vận động và tác động của chúng đến nền kinh tế của các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư. Do đó, đòi hỏi phải có cách ứng xử về mặt chính sách để điều chỉnh và quản lý dòng vận động của vốn đầu tư [11].

1.1.2. Nguyên nhân ra đời của ĐTTTNN

a. Sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận giữa các nước

Nguyên nhân cơ bản của việc di chuyển vốn đầu tư là do có sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận, xuất phát từ lợi thế so sánh khác nhau giữa các quốc gia. Điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển vốn đầu tư là do xu thế tự do hóa thương mại, đầu tư và tài chính ngày càng tăng trên thế giới hiện nay.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài biểu hiện sự gặp nhau giữa cung và cầu, đó là lợi ích của nhà đầu tư và nhu cầu của nước tiếp nhận đầu tư. Khi việc đầu tư ở trong nước không còn mang lại nhiều lợi nhuận, các nhà đầu tư có sự chuyển hướng đưa vốn đầu tư ra nước ngoài, nơi mà các chi phí cho sản xuất rẻ hơn, cho phép

thu lợi nhuận cao hơn hoặc đạt những mục tiêu quan trọng về mở rộng quy mô sản xuất, chiếm lĩnh thị phần, tăng sức mạnh so với các đối thủ cạnh tranh…

Thông qua thu hút FDI, các quốc gia nhận đầu tư có điều kiện bổ sung vốn đầu tư, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế. Vì vậy, ngày nay không chỉ các nước nghèo, thiếu vốn đầu tư, công nghệ lạc hậu đưa ra các chính sách đặc biệt nhằm thu hút vốn đầu tư mà ngay cả ở các nước có nền kinh tế phát triển cũng có nhu cầu thu hút FDI.

Việc tìm kiếm lợi nhuận nhờ vào lợi thế cạnh tranh là động cơ xuyên suốt của các nhà đầu tư nước ngoài, thúc đẩy họ tìm đến các quốc gia khác có những yếu tố thuận lợi hơn để có thể khai thác tạo ra luồng đầu tư ngoài biên giới quốc gia. Ngoài việc tận dụng các lợi thế so sánh như nhân công rẻ, nguồn tài nguyên phong phú, thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn …. thì các nhà đầu tư còn quan tâm đến việc tranh thủ các chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi của nước tiếp nhận đầu tư để tăng lợi nhuận, mở rộng thêm thị phần và tăng sức cạnh tranh. Đối với nhà đầu tư, FDI là công cụ, phương tiện để thực hiện chiến lược kinh doanh của mình.

Như vậy, giữa công ty xuyên quốc gia và FDI có mối quan hệ gắn bó với nhau vô cùng chặt chẽ. Trong bối cảnh hiện nay, các công ty xuyên quốc gia tăng cường hoạt động và tăng cường cạnh tranh với nhau trong việc đặt thêm địa điểm cơ sở sản xuất, kinh doanh ở nước ngoài. Đây cũng chính là yếu tố làm cho dòng vốn FDI ngày càng phát triển [15].

b. Khắc phục tính chu kỳ của sản phẩm

Hầu hết các lý thuyết kinh tế vi mô về đầu tư quốc tế đều xoay quanh việc trả lời các câu hỏi là: vì sao các công ty lại đầu tư ra nước ngoài? Theo cách tiếp cận từ chu kỳ sản phẩm, Vernon (1966) đã lý giải hiện tượng FDI trên cơ sở phân tích các giai đoạn phát triển của sản phẩm từ đổi mới đến tăng trưởng (sản xuất hàng loạt), đạt mức bão hòa bước vào giai đoạn suy thoái. Theo tác giả thì

Xem tất cả 124 trang.

Ngày đăng: 24/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí