Đánh giá chất lượng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - chi nhánh nam sông hương tỉnh Thừa Thiên Huế - 2


2. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu hướng vào 3 mục tiêu sau:

- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về hoạt động CVTD tại CN.

- Phân tích thực trạng và đánh giá chất lượng hoạt động CVTD tại CN.

- Đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động CVTD tại CN.

3. Đối tượng nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động CVTD tại NHNo&PTNT Việt Nam - Chi nhánh NSH Tỉnh Thừa Thiên Huế.

4. Phạm vi nghiên cứu

- Không gian: Phòng tín dụng NHNo&PTNT Việt Nam - Chi nhánh NSH Tỉnh Thừa Thiên Huế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 57 trang tài liệu này.

- Thời gian: Các thông tin thứ cấp từ năm 2010 đến năm 2012.

5. Phương pháp nghiên cứu

Đánh giá chất lượng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - chi nhánh nam sông hương tỉnh Thừa Thiên Huế - 2

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp thu thập thông tin và phương pháp phân tích. Thông tin thu thập qua nhiều kênh như từ các tình huống thực tế tại NH, học hỏi các cán bộ tín dụng, thông tin từ các phương tiện truyền thông, các báo cáo tài chính năm…Phương pháp phân tích là từ việc sử dụng các thông tin thu thập được, kết hợp với phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh, đối chiếu, từ đó có được những nhận định tổng quan về tình hình CVTD tại CN.

Phương pháp nghiên cứu chất lượng CVTD dựa trên cơ sở định lượng, bằng việc tính toán các chỉ số cụ thể, qua đó thể hiện được kết quả kinh doanh của CN. Đánh giá và đưa ra các giải pháp khắc phục.


PHẦN 2: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


1.1 Tổng quan về NHTM và hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM

1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của NHTM

Theo luật các tổ chức tín dụng 2010: “NHTM là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện tất cả các hoạt động NH và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận ”. Nói cách khác, NHTM là tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế, tổng tài sản Có của NHTM luôn có khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống NH. Sự phát triển của hệ thống NHTM sẽ thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung.

1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM

Hoạt động cơ bản của NHTM gồm 3 hoạt động chính: Huy động vốn, sử dụng vốn và cung cấp các dịch vụ tài chính.

Hoạt động huy động vốn của NH gồm:

+ Tiền gửi của KH: cá nhân, DN, tổ chức hoặc các NHTM khác.

+ Vay từ các NHTM, NHNN, phát hành các công cụ nợ như hối phiếu NH, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu NH và từ các nguồn khác.

Trong đó, tiền gửi của KH là nguồn quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NH. Nhằm thu hút vốn nhàn rỗi từ KH, bên cạnh việc trả lãi, NH luôn có những dịch vụ ưu đãi cần thiết kèm theo.

Hoạt động sử dụng vốn bao gồm các hoạt động như ngân quỹ, cho vay, đầu tư và trang bị các tài sản khác. Theo quy định của NHNN, một phần vốn mà NH huy động được phải được trích lập vào dự phòng. Đây không phải là một khoản tiền lớn nhưng nó đóng vai trò quan trọng trong tổng tài sản của NH vì nó có khả năng hạn chế rủi ro thanh khoản, tránh trường hợp thiếu lượng tiền mặt khi KH muốn rút tiền, nâng cao uy tín cho NH.

Tín dụng phản ánh hoạt động đặc trưng của NH. Đây là nghiệp vụ cung ứng vốn trực tiếp cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trên cơ sở thỏa


mãn các điều kiện mà NH đưa ra. Bằng số vốn mà KH gửi tiền, NH sẽ đem cho vay với lãi suất cao hơn, theo đó thì thu nhập lớn nhất của NH tập trung vào nghiệp vụ này. Nhưng không phải vì thế mà NH có thể cho vay với tất cả mọi KH, trách nhiệm của CBTD là phải tìm được KH tiềm năng, giúp NH gặp ít rủi ro khi cho vay nhất.

Chứng khoán là tài sản tài chính do các NHTM nắm giữ vì nhu cầu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản, bên cạnh việc mang lại thu nhập cho NH thì chúng cũng có thể dễ dàng bán khi cần thiết, đảm bảo cho hoạt động của NH.

Một số các hoạt động khác của NH là cung cấp dịch vụ. Trong xu thế hiện đại ngày nay, nhu cầu để NH trở thành trung gian thanh toán là rất cao, chiếm vai trò quan trọng trong hoạt động của các NH. Ngoài ra, NH còn tiến hành một số hoạt động kinh doanh khác như kinh doanh ngoại tệ, chứng khoán, vàng bạc…nhằm đa dạng hóa danh mục tài sản, bên cạnh đó tạo thêm lợi nhuận cho NH.

1.1.3 Hoạt động cho vay của NHTM

Hoạt động chủ yếu của các NHTM là kinh doanh tiền tệ, hay có thể nói rằng NH đi vay để cho vay. Cho vay là hoạt động quan trọng của NH, đem lại cho NH nguồn lợi nhuận lớn nhất. Đồng thời, nó cũng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản của NH, chính vì vậy mà cho vay có ảnh hưởng rất nhiều đến chiến lược hoạt động của NH.

Nền kinh tế ngày càng phát triển, doanh số cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và theo đó, các loại hình cho vay trở nên vô cùng đa dạng. Ở các nước phát triển hàng đầu thế giới, hoạt động cho vay của các NHTM đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Ngược lại, ở hầu hết các nước đang phát triển như Việt Nam, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, điều đó xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có những tác nhân chủ yếu như tình hình nguồn vốn, tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát…)

Cho vay NHTM, nói rộng ra là tín dụng NHTM, là một lĩnh vực phức tạp và chịu nhiều ảnh hưởng của môi trường kinh tế. Và để hiểu rõ hơn về hoạt động cho vay của NHTM, ta phải hiểu rõ về khái niệm về cho vay.


1.1.3.1 Khái niệm cho vay

Nhà kinh tế pháp Louis Baundin đã định nghĩa tín dụng như là “Một sự trao đổi tài hoá hiện tại lấy một tài hoá tương lai”. Ở đây, đã có yếu tố thời gian xen lẫn dẫn đến bất trắc, rủi do xảy ra và yêu cầu phải có sự tín nhiệm, chính vì thế người ta gọi đó là tín dụng.

Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó NH cho vay giao cho KH một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo các điều kiện đã thoả thuận với nguyên tắc người đi vay phải hoản trả cả gốc và lãi cho NH.

1.1.3.2 Phân loại các hình thức cho vay của NHTM

Có rất nhiều tiêu thức để phân loại hoạt động cho vay của NHTM, sau đây là phân loại theo một số căn cứ thường gặp:

Căn cứ theo thời gian

Cho vay ngắn hạn:

Là các khoản mà NH cho KH vay với thời hạn kể từ khi giải ngân đến khi KH trả hết nợ gốc và lãi tối đa là 12 tháng. Hình thức cho vay này nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, DN, cá nhân, hộ sản xuất. Cho vay trung và dài hạn:

Là các khoản cho vay có thời hạn vay tối đa là 5 năm đối với vay trung hạn và từ trên 5 năm đối với vay dài hạn. Nhu cầu đối với các khoản vay này thường là:

- DN có nhu cầu vay trung và dài hạn để mua trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ và các thiết bị phục vụ SXKD khác.

- Các KH cá nhân, hộ gia đình có thể vay vì nhu cầu cuộc sống cũng như kinh doanh nhỏ lẻ.

- Nhà nước vay trung và dài hạn để đầu tư phát triển.

- NH mua các trái phiếu trung và dài hạn DN nhằm tài trợ mua sắm tài sản cố định.

Căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay

Cho vay tiêu dùng:

Đặc điểm của loại cho vay này là người đi vay phải sử dụng số tiền vay được vào việc tiêu dùng, mua sắm tài sản nhằm mục đích phục vụ đời sống. Nguồn tiền


được dùng để trả nợ NH chính là thu nhập của người đi vay. Hình thức phổ biến nhất của loại hình này là cho vay trả góp, một loại hình đã được áp dụng rất thành công ở các nước phát triển.

Cho vay để sản xuất kinh doanh:

Mục đích của loại cho vay này là NH cho DN vay để phục vụ các hoạt động SXKD của mình, nhằm mở rộng quy mô hay đáp ứng một nhu cầu tài chính của DN. Dựa vào đặc điểm của từng ngành nghề mà NH sẽ thiết lập các điều kiện cho vay, phương thức cho vay, cách thức trả nợ dựa trên doanh thu của DN. Có thể phân chia loại hình này theo 2 loại là cho vay DN sản xuất và cho vay thương mại, hay có thể chia theo các ngành nghề kinh tế: Cho vay ngành công nghiệp, nông nghiệp và thương mại dịch vụ.

Căn cứ theo hình thức đảm bảo của các khoản vay

Cho vay có đảm bảo :

Đây là những khoản cho vay mà bên cạnh việc cho KH vay vốn, NH còn yêu cầu tài sản đảm bảo (TSĐB) của người vay với mục đích xử lý tài sản đó nếu NH không thể thu hồi được nợ. Ngoài ra, khi cho vay NH không trực tiếp quản lý nguồn vốn của mình, vì thế có rất nhiều rủi ro xảy ra, nguy cơ không thu hồi đủ vốn vay là rất cao nên các NH khi cho vay thường yêu cầu người vay phải có TSĐB cho các khoản vay. TSĐB được xem là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất như doanh thu, thu nhập, tiền lương không có cơ sở chắc chắn.

Các khoản cho vay không có đảm bảo :

Là khoản cho vay mà NH không yêu cầu bất cứ TSĐB của người đi vay để xử lý nhằm thu hồi nợ mà thay vào đó là những điều kiện ràng buộc khác khi ký hợp đồng tín dụng. Đối với KH cá nhân, NH thường cho vay đối với công chức Nhà nước có thẻ lương mở tại NH, như vậy NH mới có thể quản lý được tình hình tài chính của người đi vay.

Thông thường chỉ có những KH có quan hệ lâu năm với NH hoặc những KH có uy tín, hay những KH tổ chức mà NH có tham gia góp vốn vào thì mới được cho vay không cần tài sản đảm bảo.


Căn cứ theo hình thức hình thành khoản vay

Cho vay trực tiếp:

Phần lớn các khoản cho vay của NH là cho vay trực tiếp. Theo đó, KH trực tiếp đến NH và xin vay vốn, sau đó NH trực tiếp chuyển giao tiền cho KH sử dụng trên cơ sở những điều kiện mà hai bên thoả thuận.

Thông thường, hình thức này được áp dụng đối với những KH có tài sản thế chấp, có uy tín mà không cần phải thông qua trung gian nào thì họ thường vay trực tiếp NH. Cho vay gián tiếp:

Cho vay gián tiếp là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. NH cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm, như nhóm sản xuất hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ .. Các tổ chức trung gian thường quan tâm đến việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo cho các thành viên, vì vậy thường xuyên liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. NH cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích.

Hình thức này thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa NH. Trong trường hợp này, cho vay qua trung gian có thể tiết kiệm chi phí cho vay như chi phí thẩm định, giám sát, thu nợ.

1.2 Một số vấn đề về cho vay tiêu dùng của NHTM

1.2.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng

Hình thức CVTD chỉ mới xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, cụ thể là sau thế chiến thứ hai, nền kinh tế hàng hoá phát triển và những cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra, khiến giới tư bản sản xuất đã phải bỏ đi bao nhiêu hàng hoá khi mà nhu cầu tiêu dùng có nhưng không có cầu thực sự. Những cơ sở để loại hình tín dụng này ngày càng trở nên phổ biến là do nhu cầu vay tiêu dùng gia tăng mạnh, thu nhập người dân ngày một tăng, nhiều người có thu nhập tương đối ổn định, đảm bảo được khả năng trả nợ cho NH.

CVTD là sản phẩm tín dụng của các NHTM hỗ trợ nguồn tài chính cho các nhu cầu mua sắm vật dụng gia đình, sửa chữa nhà ở, xe cơ giới, làm kinh tế hộ gia đình, nhu cầu thanh toán học phí, đi du lịch, chữa bệnh, cưới hỏi... và một nhu cầu thiết yếu


khác. Theo đó, KH khi vay vốn phải đáp ứng được một số điều kiện mà NH đưa ra như TSĐB, năng lực tài chính, khả năng trả nợ…và khi đến hạn phải hoàn trả tiền gốc và lãi cho NH.

1.2.2 Đặc điểm của cho vay tiêu dùng

- Mục đích vay tiêu dùng: Là nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình. Nó không xuất phát từ mục đích kinh doanh, do đó phụ thuộc vào nhu cầu, tính cách, khả năng kinh tế của từng người.

- Quy mô các khoản vay: Các khoản CVTD thường có quy mô nhỏ nhưng số lượng các món vay nhiều.

- Đối tượng vay vốn là những cá nhân có mức thu nhập đều và ổn định, đảm bảo khả năng trả nợ.

- Về lãi suất: Đối với CVTD, đây là hoạt động không đem lại nguồn thu nhập cho KH đi vay nên rủi ro mà KH không trả được nợ được đánh giá là cao hơn so với cho vay SXKD. Chính vì điều này mà lãi suất mà các NHTM thường áp dụng đối với loại hình này cao hơn so với lãi suất cho vay trong các lĩnh vực khác.

- Rủi ro: Các khoản CVTD thường có rủi ro cao. Trong quá trình vay, chính NH cũng như KH cũng không chắc chắn rằng tình hình tài chính của họ có thể biến động dẫn đến việc KH không có khả năng trả nợ, hoặc rủi ro xảy ra khi KH sau khi đã sử dụng hết vốn vay không có thiện ý muốn trả nợ cho NH. Bên cạnh đó, việc KH gặp vấn đề về sức khỏe, tình trạng hôn nhân bất ổn sau khi vay cũng dẫn đến việc NH gặp khó khăn trong công tác thu hồi nợ.

- Nguồn trả nợ: Đối với KH cá nhân đi vay tiêu dùng thì nguồn trả nợ chủ yếu của họ là tiền lương, tùy thuộc vào lĩnh vực làm việc của KH mà mỗi người có khả năng trả nợ khác nhau. KH vay vốn là công nhân viên chức thường có mức thu nhập ổn định hơn những người làm trong lĩnh vực kinh doanh.

1.2.3 Phân loại cho vay tiêu dùng

1.2.3.1 Căn cứ vào mục đích cho vay: Gồm 2 loại

- CVTD cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua, xây dựng, sửa chữa nhà ở của KH là cá nhân và hộ gia đình. Đặc điểm các khoản vay này là quy mô lớn và thời gian hoàn trả dài hạn.


- CVTD phi cư trú: Là các khoản cho vay dùng để trang trải cho chi phí mua xe, vật dụng gia đình, chi phí học, du lịch, giải trí…Các khoản vay này thường nhỏ và thời gian hoản trả nhanh và có mức rủi ro thấp hơn hình thức CVTD cư trú.

1.2.3.2. Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng

Gồm 2 loại: CVTD trực tiếp và CVTD gián tiếp. Hình thức này gồm sự liên quan giữa các mối quan hệ sau:



Ngân hàng



Khách hàng

DN bán lẻ

-CVTD gián tiếp:

Đây là hình thức cấp tín dụng trong đó NH mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa hay dịch vụ cho người tiêu dùng.

(1) NH và DN bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng, NH đưa ra các điều kiện về đối tượng KH được bán chịu, số tiền và loại tài sản được bán chịu.

(2) DN bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hóa, thường thì người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị hàng hóa.

(3) DN bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.

(4) DN bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hóa cho người tiêu dùng.

(5) NH thanh toán tiền cho DN bán lẻ.

(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho NH (trả nợ định kỳ).


Ưu điểm:

- NH tăng doanh số cấp tín dụng.

- Tiết kiệm chi phí cấp tín dụng.

- Tạo điều kiện mở rộng mối quan hệ với cả KH và DN.


Nhược điểm:

- NH không tiếp xúc trực tiếp được KH.

- Không kiểm soát được quá trình mua bán chịu hàng hóa của KH và DN bán lẻ.

- Đây là nghiệp vụ có tính rủi ro cao nên nếu để DN bán lẻ tự cho vay thì mức độ rủi ro sẽ cao hơn.

- Nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu NH không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho riêng mình.

Do những hạn chế kể trên mà hiện tại các NHTM chưa thực sự chú trọng đến CVTD gián tiếp, nếu có thì cũng bị kiểm soát tín dụng hết sức chặt chẽ.

-CVTD trực tiếp:

Cũng là mối quan hệ giữa 3 chủ thể: NH, KH và DN bán lẻ. Nhưng trong quy trình CVTD gián tiếp, mối quan hệ giữa các chủ thể được thể hiện qua các bước như sau:

(1) NH và người tiêu dùng ký kết hợp đồng tín dụng.

(2) Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua hàng cho DN bán lẻ.

(3) NH thanh toán số tiền còn thiếu cho DN bán lẻ.

(4) DN bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.

(5) Người tiêu dùng thanh toán nợ cho NH. Ưu điểm:

- NH có thể quản lý được chất lượng khoản vay, hạn chế rủi ro do các CBTD chú trọng đến việc tạo ra các khoản tín dụng có chất lượng tốt.

- Do NH có quan hệ trực tiếp với KH nên linh hoạt hơn trong việc giới thiệu các sản phẩm khác của NH.

1.2.3.3 Căn cứ vào cách thức hoàn trả

- CVTD trả góp: Là hình thức cho vay phổ biến hiện nay. Trong đó, người vay trả gốc và lãi cho NH nhiều lần theo thời hạn nhất định. Phương thức này áp dụng đối với những khoản vay lớn, dành cho KH có thu nhập đều và có khả năng trả nợ.

- CVTD trả một lần khi đáo hạn: Hình thức này cho phép KH có thể thanh toán nợ cho NH chỉ một lần khi đến hạn, được áp dụng đối với những khoản vay nhỏ và


ngắn hạn. Ưu điểm của hình thức này là NH ít hao tốn thời gian và nhân lực, tuy nhiên nó cũng mang lại rủi ro cao cho các NH.

- CVTD tuần hoàn: Là hình thức cho vay trong đó NH cho phép KH của mình sử dụng thẻ tín dụng hoặc các loại séc thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Trong thời gian tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào mức chi tiêu và thu nhập định kỳ của KH mà NH cho phép được vay hay trả nợ tuần hoàn theo hạn mức tín dụng xác định.

1.2.3.4 Căn cứ vào hình thức đảm bảo

CVTD là loại hình cho vay có rủi ro cao, chính vì thế, các NHTM thường yêu cầu phải có đảm bảo. Có các hình thức đảm bảo sau:

- Cho vay tín chấp (đảm bảo bằng lương hay thu nhập).

Loại hình cho vay này không cần TSĐB, NH dựa vào thu nhập của KH để xem xét có nên cho vay hay không. Đối tượng cho vay thường là cán bộ, công nhân viên chức, có việc làm ổn định, mức thu nhập lớn hơn các khoản chi tiêu thì mới có thể trả được nợ. Trong quá trình cho vay, NH cần phải kiểm soát tình hình lao động để xem KH có nghỉ việc hoặc chỉ khuyến khích cho vay đối với những tổ chức uy tín, những người có thời gian công tác nhất định.

Thông thường, NH cho vay đối với những KH có lương được trả qua thẻ của chính NH mình, theo đó, NH và KH phải ký cam kết rằng nếu KH không hoàn trả trong số kỳ trả nợ theo quy định của mỗi NH, NH có quyền rút tiền lương của KH để bù đắp số tiền mà họ chưa trả.

- Cho vay cầm cố, thế chấp

Đây là loại hình cho vay cần phải có TSĐB, thời hạn cho vay thường do KH lựa chọn theo đúng khả năng tài chính của họ, tuy nhiên nó cũng căn cứ theo tính chất, điều kiện bảo quản của tài sản (đối với khoản vay cầm cố thường là ngắn hạn). Mức cho vay được xác định phụ thuộc vào nhu cầu của KH và vào giá trị thẩm định của tài sản, dựa vào tính thanh khoản, giá trị, khả năng bảo quản của tài sản cầm cố nhưng không quá 75% giá trị của tài sản cầm cố. NH thường cho KH cầm cố các GTCG do NH đó phát hành như sổ tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi…và các động sản có giá trị khác.


- Cho vay theo TSĐB hình thành từ khoản vay

Tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay là tài sản mà giá trị của nó do một phần hoặc toàn bộ khoản vay do NH cấp được KH sử dụng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với NH bằng cách giao giấy tờ sở hữu tài sản và xác nhận cho NH quyền phát mại tài sản khi KH không hoàn trả được nợ vay.

Một số loại tài sản hình thành từ vốn vay như: Nhà cửa, công trình xây dựng; Máy móc, phương tiện vận tải, tàu biển, máy bay; Hàng hóa nhập khẩu…

Hình thức bảo đảm này đặc biệt có ý nghĩa đối với các DN. Nó vừa góp phần giải quyết nhu cầu về vốn để mở rộng phát triển SXKD của các DN, vừa giúp NH mở rộng phạm vi cho vay bằng nhiều loại tài sản nhằm tăng lợi nhuận, đảm bảo các yếu tố về mặt pháp lý, hạn chế được những quy định khắt khe của NHNN, giảm bớt được rủi ro tín dụng và duy trì mối quan hệ với KH tiềm năng.

- Cho vay có bảo lãnh của bên thứ ba

Loại hình cho vay này áp dụng đối với những KH muốn vay nhưng không có đủ điều kiện đảm bảo. Người đi vay sẽ yêu cầu có sự bão lãnh của bên thứ ba – bên bão lãnh – có TSĐB khiến NH có thể tin tưởng để cho vay. Theo đó, bên bảo lãnh có trách nhiệm hoàn trả nợ cho bên được bão lãnh (KH vay vốn) khi bên được bão lãnh không có khả năng trả nợ cho NH.

1.2.4 Vai trò của cho vay tiêu dùng

- Đối với nền kinh tế: Tiêu dùng là yếu tố tác động đến tổng cầu Y. Tổng cầu cả nước: Y = C + I + G + NX

Trong đó:

C (Consumption): Chi cho tiêu dùng của tất cả cá nhân, hộ gia đình trong nền kinh tế.

I (Investment): Là đầu tư của các nhà kinh doanh, còn gọi là tiêu dùng của các nhà đầu tư nhằm mục đích sản xuất, góp phần phát triển kinh tế xã hội.

G (Government): Chi tiêu của Chính phủ vào các chính sách hỗ trợ kinh tế xã hội như mở đường, xây cầu, từ thiện…

NX = X - M: Giá trị xuất khẩu ròng. Giá trị được tính bằng khoản thu từ xuất khẩu trừ cho khoản thu từ nhập khẩu.


Nhìn vào công thức có thể thấy được tiêu dùng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Khi NH mở rộng CVTD sẽ thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa thuận lợi, góp phần củng cố đời sống về mặt vật chất cũng như tinh thần, tạo điều kiện phát triển nền kinh tế xã hội của nước nhà.

- Đối với cá nhân, hộ gia đình

Nền kinh tế đang ngày càng phát triển khiến các thành phần trong xã hội phát sinh nhiều nhu cầu. CVTD của NH tạo điều kiện cho các cá nhân, hộ gia đình thỏa mãn các điều kiện về cơ sở vật chất, học tập, tinh thần nhằm nâng cao mức sống và trình độ dân trí. Nhu cầu chi tiêu được đáp ứng khiến cho thành phần lao động có động lực phát triển, nâng cao tay nghề và lao động tích cực hơn.

Bên cạnh đó, trong xã hội hiện vẫn còn tồn tại hình thức cho vay nặng lãi. Việc NH phát triển hình thức CVTD đối với nhiều thành phần trong xã hội góp phần giúp người nghèo giảm bớt gánh nặng về tiền lãi hơn. Qua hoạt động CVTD, người dân có thể tiết kiệm tích lũy để đầu tư, phát triển như mua xe, mua nhà, du học, giải trí…, giúp đời sống con người được cải thiện nhiều hơn.

- Đối với NH

Đối với một đất nước đang trên đà hội nhập và phát triển như Việt Nam, nhu cầu về đầu tư và phát triển rất lớn, nhận thức được vấn đề này, các NH mọc lên ngày càng nhiều tạo sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Để tồn tại và phát triển, các NH phải tìm đủ mọi cách để đa dạng hóa các sản phẩm kinh doanh, đáp ứng được nhu cầu của xã hội. CVTD hiện nay là loại hình kinh doanh đem lại không ít lợi nhuận cho NH, tuy nhiên, cũng gặp nhiều rủi ro. Một hệ thống quản lý chặt chẽ và một bộ phận nhân viên nhiệt tình, giỏi chuyên môn sẽ giúp cho các NH phát triển loại hình này tốt hơn, thu hút các lĩnh vực khác liên quan.

CVTD còn là kênh cho các KH tiếp cận được các dịch vụ khác của NH như tiền gửi thanh toán, gửi tiết kiệm, chuyển khoản..,đồng thời giúp NH phân tán được một phần rủi ro từ tín dụng DN sang tín dụng cá nhân.

Xem tất cả 57 trang.

Ngày đăng: 18/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí