Giai Đoạn Tự Do Hóa Đầy Đủ (Từ Năm 2000 Đến Nay)



3. Một yêu cầu được đưa ra cho xe ô tô là giảm phát thải cho xăng không chì.

4. Cho phép đăng ký mới các nhà

máy lắp ráp xe.


1997-1998

1. Loại bỏ tất cả các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa đối với xe ô tô chở khách 18 tháng trước khi Hiệp định TRIMs của WTO.

2. Thành lập Viện Ô tô Thái Lan (TAI) làm tổ chức hỗ trợ phát triển công nghiệp ô tô của Thái

Lan.


1999

Công bố một cấu trúc thuế ô tô

mới để thay thế cho "các chính sách tỷ lệ nội địa hóa".


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.

Nguồn: [118].

3.1.3. Giai đoạn tự do hóa đầy đủ (từ năm 2000 đến nay)


Sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO năm 2000, Thái Lan đã bãi bỏ hoàn toàn quy định về nguồn gốc xuất xứ sản phẩm và linh kiện ô tô, cho phép các công ty đa quốc gia thành lập công ty 100% vốn nước ngoài tại Thái Lan. Nhờ đó, các công ty đa quốc gia trở thành nhà lắp ráp và sản xuất ô tô, còn những doanh nghiệp trong nước trở thành các nhà thầu, nhà cung cấp phụ tùng, nguyên vật liệu trong mạng sản xuất ô tô toàn cầu ở Thái Lan.

Bên cạnh đó, việc Thái Lan tham gia khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) đã tăng cường thêm sự tự do hóa trong ngành sản xuất ô tô của Thái Lan. Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) quy định nếu xe sản xuất ra có tỷ lệ nội địa hóa đạt mức 40% thì sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi 0-5% khi xuất sang các nước ASEAN [103].

Một trong những yếu tố đóng góp vào thành công trong việc tham gia mạng sản xuất ô tô toàn cầu của Thái Lan chính là năng lực hoạch định và triển khai chính sách. Thái Lan đã thông qua ba lần quy hoạch tổng thể ngành sản xuất ô tô xe máy: quy hoạch thứ nhất (2002-2006); quy hoạch thứ hai (2006-2011) và quy hoạch thứ ba (2012-2016). Trong ba lần quy hoạch, về tổng thể ngành sản xuất ô tô của Thái Lan, các mục tiêu đều rõ ràng, xuyên suốt từ phân tích tình hình thế giới cho đến phân tích tình hình trong nước, sau đấy phân tích điểm mạnh, điểm yếu của ngành rồi đưa ra tầm nhìn, mục tiêu, chiến lược và các kế hoạch hành động chi tiết. Điểm nổi bật chung của ba bản quy hoạch của ngành sản xuất ô tô Thái Lan chính là xây dựng được một khung phân tích rõ ràng, thúc đẩy sự tham gia của các nhóm lợi ích vào quá trình xây dựng bản quy hoạch. Trong quy hoạch công nghiệp ô tô lần thứ nhất, mục tiêu đưa Thái Lan trở thành trung tâm chế tạo ô tô của khu vực, định vị dòng xe bán tải là “sản phẩm vô địch”. Để đạt được mục tiêu của mình, Chính phủ Thái Lan đã miễn giảm thuế nhập khẩu máy móc cho tất cả các dự án sản xuất xe bán tải, nhờ đó, Toyota và Isuzu đã quyết định chuyển mảng sản xuất xe bán tải từ Nhật Bản sang Thái Lan. Cùng thời điểm đó, hãng ô tô Ford cũng chọn Thái Lan làm trung tâm sản xuất dòng xe Ford Everest để xuất khẩu tới hơn 50 quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, Chính phủ Thái Lan cũng cụ thể hóa các mục tiêu của công nghiệp ô tô xe máy Thái Lan như sau:

- Chế tạo 1 triệu ô tô/ năm trong đó xe tải 1 tấn đạt 700.000 chiếc, xe ô tô khách đạt 300.000 chiếc với tổng giá trị hơn 500 tỷ baht;

- Xuất khẩu 140.000 xe ô tô trong năm 2006 (14% số lượng sản xuất);


- Sản xuất 2 triệu xe máy với tổng giá trị hơn 100 tỷ baht;


- Xuất khẩu 120.000 chiếc xe vào năm 2006 (6% số xe máy sản xuất);


- Xuất khẩu các linh phụ kiện ô tô xe máy có chất lượng quốc tế với trị giá hơn 200 tỷ baht;

- Giá trị gia tăng của linh phụ kiện ô tô xe máy được sản xuất trong nước đạt 160 tỷ baht vào năm 2006.

Để phát triển công nghiệp ô tô, Chính phủ Thái Lan tập trung hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa bằng các chương trình như tăng kinh phí đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo kỹ sư, tặng học bổng học tập cho khối ngành công nghiệp, đào tạo đội ngũ điều hành và đội ngũ giáo viên phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp. Xây dựng trung tâm cơ sở dữ liệu công nghiệp ô tô, trung tâm hỗ trợ xuất khẩu linh kiện, phụ kiện phù hợp với các cam kết WTO và AFTA.

Năm 2000, Chính phủ Thái Lan đã dỡ bỏ yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa để đáp ứng với các quy định khi gia nhập WTO, đồng thời Chính phủ Thái Lan cũng sử dụng các chính sách tài chính khác nhau nhằm thúc đẩy công nghiệp ô tô như: tăng tỷ lệ thuế từ 20% lên đến 33% đối với nhập khẩu linh kiện phụ kiện CKD; giảm thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe taxi từ 35-48% xuống còn 12%, xe bán tải xuống còn 3-5%, và xe chở khách (nhỏ hơn 2.400 cc) từ 37,5% xuống còn 35% [103].

Nhờ các chính sách khuyến khích của Chính phủ, Toyota đã quyết định chuyển cơ sở sản xuất xe tải và xe bán tải từ Nhật Bản tới Thái Lan. Mục tiêu Toyota sử dụng Thái Lan như một có sở sản xuất để sản xuất và xuất khẩu sản phẩm của mình. Năm 2005, hơn 70 nhà cung cấp phụ tùng ô tô Nhật Bản đã đầu tư vào Thái Lan, trong đó có bốn hãng xe lớn thành lập trung tâm R&D ở Thái Lan. Năm 2004, Chính phủ đưa ra kế hoạch phát triển công nghiệp ô tô Thái Lan trở thành “Detroit của châu Á”. Mục tiêu kế hoạch này biến Thái Lan trở thành trung tâm xuất khẩu ô tô trong khu vực Đông Nam Á với mục tiêu sản xuất 2,5 triệu chiếc năm 2016 và trở thành một trong những nhà sản xuất ô tô hàng đầu trên thế giới.

Theo Tổ chức các nhà sản xuất xe ô tô quốc tế (OICA), năm 2020 Thái Lan là nhà sản xuất xe lớn thứ 11 thế giới và là quốc gia sản xuất xe hàng đầu của khu vực ASEAN. Với xu hướng xe điện thực sự là tương lai của công nghiệp ô tô, năm 2018, Thái Lan đã áp dụng một chương trình thuế tiêu thụ đặc biệt mới nhằm thay đổi cách đánh thuế từ chỉ dựa trên công suất động cơ chuyển sang dựa trên phát thải khí CO2.

Bảng 3.5: Thuế tiêu thụ đặc biệt ô tô của Thái Lan từ tháng 1 năm 2018



Loại xe

Công suất động cơ / nhiên liệu /

chasis

CO2 g/km

< 100

100–150

150–200

> 200


Xe chở khách

< 3.000 cc


30%

35%

40%

E85/CNG


25%

30%

35%

> 3.000 cc

50%

Xe động cơ xăng điện (Hybrid)

< 3.000 cc

5%

20%

25%

30%

> 3.000 cc

50%

Xe điện chạy Pin

(BEV)

-

2%




Xe tiết kiệm nhiên liệu (Eco Car)

1.300 - 1.400 cc

14%

17%

E85

12%



< 200

> 200


Xe bán tải

Single cab (2

cửa, 1 hàng ghế)

3%

5%

Space cab (2 cửa, 2 hàng ghế)

5%

7%

Double cab (4

cửa, 2 hàng ghế)

12%

15%

Xe bán tải

< 3.250 cc

25%

30%

> 3.250 cc

50%

Nguồn: Thai Board of Investment.


Tháng 3 năm 2017, Chính phủ Thái Lan công bố lộ trình phát triển xe điện và áp dụng chính sách thuế ưu đãi cho sản xuất xe điện. Mục tiêu của Thái Lan là đến năm 2036 sẽ tăng được lượng xe điện lên 1,2 triệu chiếc và có 690 trạm sạc điện trên toàn quốc. Theo kế hoạch này, các dự án đầu tư sản xuất xe BEV (xe điện) được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp từ 3 đến 8 năm với các doanh nghiệp đăng ký trước 31/12/2019: đối với ô tô điện, những hãng đầu tư tối thiểu 5 tỷ baht (162,6 triệu USD) bên cạnh các đặc quyền bổ sung nếu họ đầu tư vào nghiên cứu và phát triển thì họ đồng thời sẽ được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 8 năm. Các công ty đầu tư ít hơn 5 tỷ baht sẽ được miễn thuế doanh nghiệp ba năm cùng các đặc quyền bổ sung cho các mục tiêu cụ thể khác.

Tóm lại, chính sách phát triển công nghiệp ô tô Thái Lan khá mở. Thái Lan không đặt mục tiêu phát triển một thương hiệu ô tô riêng cho mình như Hàn Quốc, Indonesia và Malaysia. Tuy có những chính sách bảo hộ theo từng giai đoạn phát triển

ngành, nhưng chủ yếu vẫn là biện pháp thuế quan. Bên cạnh đó, Thái Lan có chiến lược phát triển liên kết ngành rõ ràng, do đó vị trí doanh nghiệp ô tô Thái Lan hầu hết tập trung tại Bangkok và các tỉnh lân cận, nhờ đó tạo nên các cụm liên kết công nghiệp ô tô ở Thái Lan. Chính điều này đã hấp dẫn các công ty đa quốc gia, hãng ô tô lớn trên thế giới khi muốn tìm cho mình một trung tâm sản xuất ô tô của khu vực.

3.1.4. Vị trí của công nghiệp ô tô trong nền kinh tế Thái Lan


Công nghiệp ô tô là một trong những ngành công nghiệp quan trọng nhất tác động đến sự phát triển kinh tế của Thái Lan và cũng được đánh giá là một trong những ngành công nghiệp đi đầu, kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp khác. Ngành này đã đóng góp vai trò to lớn cho nền kinh tế của Thái Lan như đóng góp vào GDP, thuế, thặng dư thương mại, cũng như tạo ra nhiều công ăn việc làm.


Hình 3 1 Vai trò của công nghiệp ô tô Nguồn Bộ Công Thương 2017 Công 1

Hình 3.1: Vai trò của công nghiệp ô tô

Nguồn: Bộ Công Thương (2017).

Công nghiệp ô tô ở Thái Lan được thành lập trong những năm 1960 như một phần trong nỗ lực của chính phủ nhằm nâng cấp nền kinh tế từ chủ yếu là nông nghiệp sang công nghiệp. Đến năm Năm 2020, công nghiệp ô tô ở Thái Lan sử dụng khoảng

850.000 lao động và đóng góp khoảng 10% vào GDP của đất nước. Trong sáu thập kỷ qua, công nghiệp ô tô của Thái Lan đã sản xuất ô tô, xe máy, xe tải lớn, xe buýt,

máy kéo, máy nông nghiệp, cũng như các ngành công nghiệp hỗ trợ như phụ tùng ô tô, lốp xe và phụ kiện.

3.1.5. Vị trí của Thái Lan trong mạng sản xuất ô tô toàn cầu


Công nghiệp ô tô Thái Lan bắt đầu được xây dựng từ những năm 1960 và có những bước phát triển tốt vào thập kỷ 1980 và những năm đầu 1990. Năm 1960 Thái Lan mới chỉ sản xuất được 525 chiếc xe trong khi tiêu thụ nội địa là 6.080 chiếc xe. Năm 1961, công ty ô tô đầu tiên được thành lập có tên Anglo - Thai Motor được thành lập trên cơ sở liên doanh giữa hãng Ford và Thai Motor Industry. Năm 1990 số lượng xe sản xuất tại Thái Lan tăng đáng kể bởi hai lý do chính. Một mặt, sự tăng giá của đông yên Nhật Bản khuyến khích các nhà sản xuất Nhật Bản mở rộng nhà máy sản xuất của họ tại Thái Lan. Mặt khác, Chính phủ Thái Lan cam kết tự do hóa, bãi bỏ quy định về công nghiệp ô tô. Tuy nhiên, những nỗ lực này cũng không thành công nhiều vì thị trường Thái Lan lúc đó còn khá nhỏ.

Năm 1997, khủng hoảng tài chính châu Á và sự mất giá của đồng bath gây ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng đến công nghiệp ô tô Thái Lan. Sự suy giảm nhu cầu nội địa buộc các nhà sản xuất điều chỉnh kế hoạch sản xuất của họ, cụ thể là giảm sản lượng, giảm số lượng lao động, điều chỉnh thời gian làm việc và tăng cường xuất khẩu nhằm bù đắp sự thiếu hụt trong nước. Cuộc khủng hoảng buộc các nhà sản xuất ô tô phải đi tìm kiếm thị trường xuất khẩu để bù đắp cho việc sụt giảm doanh số bán hàng trong nước. Các công ty nước ngoài được hỗ trợ từ công ty mẹ- các cường quốc không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, nên họ vẫn duy trì được phần nào dù có khó khăn, tuy nhiên, các công ty trong nước, thì gặp những khó khăn nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng này. Đứng trước nguy cơ phá sản của doanh nghiệp nội, chính phủ đã thay đổi các quy định về đầu tư như cho phép doanh nghiệp nước ngoài góp vốn liên doanh, ngoài ra, việc phá giá đồng bath và tự do hóa đầu tư giúp cho nguồn vốn FDI Nhật Bản vào công nghiệp ô tô Thái Lan tăng nhanh chóng. Do đó, chỉ trong một thời gian ngắn công nghiệp ô tô Thái Lan đã phục hồi nhanh chóng. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 đã chứng minh rằng Thái Lan có tiềm năng mạnh mẽ để trở thành cơ sở xuất khẩu. Các công ty nổi tiếng trên thế giới như

Toyota, Honda, Mazda, Mitsubishi, Isuzu, Ford, GM, Suzuki, … đã quyết định sử dụng Thái Lan như một cơ sở xuất khẩu của họ. Cuộc khủng hoảng tái chính châu Á làm thay đổi cơ cấu ngành- từ định hướng nội địa sang xuất khẩu. Năng lực sản xuất mở rộng đáng kể sau năm 2000, đến năm đến năm 2013, Thái Lan đã và trở thành quốc gia sản xuất xe hơi nhiều nhất ở Đông Nam Á và đứng thứ chín trên thế giới và là nhà sản xuất lớn thứ hai về thị trường xe bán tải. Thái Lan đồng thời cũng là trung tâm sản xuất và xuất khẩu ô tô lớn nhất của các hãng ô tô của Nhật Bản. Đặc biệt năm 2007, sản xuất đạt 1.301.849 chiếc, với tổng sản lượng xuất khẩu đạt 690.100 chiếc, điều này đánh dấu một mốc quan trong cho công nghiệp ô tô Thái Lan vì lần đầu tiên sản lượng xuất khẩu vượt qua sản lượng tiêu thụ trong nước. Hiện nay, tại Thái Lan đã có trung tâm nghiên cứu của những hãng ô tô lớn trên thế giới như Toyota, Honda, Isuzu, Nissan và Denso.

Năm 2008, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra, một lần nữa gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến công nghiệp ô tô Thái Lan, sản lượng xe ô tô giảm từ 1.391.728 xuống 999.378 xe (-28%). Quý 1 của năm 2009, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và cuộc khủng hoảng tài chính châu Á là như nhau, cả sản lượng tiêu thụ nội địa và xuất khẩu đều giảm trầm trọng, thất nghiệp gia tăng, đặt biệt là khi sản lượng tiêu thụ nội địa chững lại thì xuất khẩu xe ô tô của Thái Lan vẫn không ngừng gia tăng, tuy nhiên, do có kinh nghiệm vượt qua khủng hoảng 1997, nên trải qua cuộc khủng hoảng này, công nghiệp ô tô Thái Lan có thể chịu được tác động tốt hơn. Nếu như cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 dẫn tới sự phá sản của hàng loạt công ty vừa và nhỏ, thì năm 2008 số doanh nghiệp phá sản ít hơn nhiều và từ quý 3 năm 2019, việc làm trong công nghiệp ô tô đã tăng từ 30-35% lên đến trên 85% so với trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu. Bên cạnh sản xuất xe bán tải là thế mạnh đặc trưng, chính phủ Thái Lan đã có chính sách ưu đãi về thuế nhằm chuyển sang sản xuất xe du lịch cỡ nhỏ tiết kiệm nhiên liệu, thân thiện với môi trường. Chính sách này của Chính phủ được đồng thuận của các hãng ô tô, các nhà sản xuất linh kiện, và đặc biệt là phù hợp với chiến lược sản xuất toàn cầu của họ. Do đó, chỉ trong thời gian ngắn, sản lượng sản xuất xe ô tô của Thái Lan đã phục hồi và tăng trở lại [104].

Năm 2020, sản xuất xe hơi toàn cầu lên hơn 77 triệu xe. Đứng đầu là Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, và Thái Lan đứng thứ 11 sau Brazil và Nga. Do ảnh hưởng của dịch covid 19 nên sản lượng sản xuất của Thái Lan giảm 29% so với năm 2019, tuy nhiên, do có kinh nghiệm vượt qua các cuộc khủng hoảng từ trong quá khứ, nên sau khi dịch Covid được khống chế, thì khả năng Thái Lan sẽ vươn lên thành một trong những nhà sản xuất ô tô hàng đầu trên thế giới.


Hình 3 2 Sản lượng sản xuất ô tô của một số quốc gia đứng đầu thế 2

Hình 3.2: Sản lượng sản xuất ô tô của một số quốc gia đứng đầu thế giới từ 2000-2020

Nguồn: OICA, http://www.oica.net/category/production-statistics/2020-statistics/ Sự thành công này là kết quả của chính sách thúc đẩy sản xuất xe tải và xe bán

tải của chính phủ như một sản phẩm vô địch của Thái Lan. Sáu nhà sản xuất ô tô đã cam kết thiết lập cơ sở sản xuất chính và đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm ở Thái Lan là Toyota, Isuzu, Mitsubishi, Nissan, Ford và GM. Nhờ đó, Thái Lan đã trở thành một cơ sở sản xuất xe bán tải hàng đầu thế giới và là một cơ sở sản xuất chính của xe tải 1 tấn và xe khách.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/02/2023