hạn chế nhất định. Yêu cầu cơ chế bảo hiến dù là đơn giản vào thời điểm đó là điều khó khăn.
Hiến pháp 1946 sau khi được thông qua cũng không được ghi nhận và áp dụng vào thực tiễn do toàn quốc bước vào kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm. Nhưng những quy định Hiến pháp 1946 đã để lại những giá trị to lớn cho toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời đã có những quy định làm nền tảng cho mô hình bảo hiến ở Việt Nam.
2.1.2. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1959 được ban hành sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, miền Bắc hoàn toàn độc lập. Bản Hiến pháp đã được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ nhất, kỳ họp thứ 11, nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 31 tháng 12 năm 1959. Hiến pháp 1959 ra đời trong giai đoạn đất nước vẫn bị chia cắt, chiến tranh chưa chấm dứt, hòa bình chưa được lập lại. Hiến pháp 1959 được xây dựng trên nền tảng kế thừa, sửa đổi và bổ sung những quy định của Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp 1959 được xây dựng trong thời kỳ chiến tranh, mang đặc thù của hệ thống pháp luật thời chiến, khi quân lệnh chiếm vị trí tối thượng trong hệ thống quyền lực.
Hiến pháp 1959 đã ghi nhận bước đầu sự xuất hiện của cơ chế bảo hiến đầu tiên ở Việt Nam. Cơ chế bảo hiến Quốc hội được xây dựng dựa trên nền tảng những quy định của Hiến pháp 1946 cùng với sự tham khảo học tập kinh nghiệm từ hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ hướng tới mô hình bảo hiến nghị viện mà các nước xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn. Hiến pháp 1959 và cơ chế bảo hiến đầu tiên ra đời trong hoàn cảnh hệ thống pháp luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ pháp luật xã hội chủ nghĩa một cách thụ động, máy móc và rập khuôn
Đặc điểm mô hình bảo hiến:
Mô hình bảo hiến theo theo Hiến pháp 1959 không tồn tại dưới dạng một cơ quan bảo hiến chuyên trách. Cơ chế bảo hiến bước đầu dựa trên nền tảng quy định cho một số cơ quan nhà nước nhất định có thẩm quyền kiểm tra và giám sát các loại văn bản nhất định. Về cơ sở pháp lý để hoạt động bảo hiến, Hiến pháp 1959 quy định gián tiếp giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp so với những văn bản pháp lý được ban hành mà Quốc hội thông qua, văn bản quy phạm pháp luật không được trái Hiến pháp. Hiến pháp 1959 quy định thẩm quyền cho Quốc hội xử lý văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt làm quyền ban hành những văn bản pháp luật. Theo quy định của điều 48 Các đạo luật và các nghị quyết của Quốc hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, trừ trường hợp quy định ở Điều 112 của Hiến pháp
Hiến pháp 1959 định những cơ quan ban hành sửa đổi, thủ tục thông qua các văn bản pháp luật, cũng như gián tiếp quy định Hiến pháp là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, tạo nên trình tự pháp lý nhất định buộc các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp buộc phải tuân thủ, tạo điều kiện cho mô hình bảo hiến có thể hoạt động.
Tuy mô hình bảo hiến vẫn bị lu mờ so với các chế định cơ bản của Hiến pháp khác nhưng Hiến pháp 1959 đã ghi nhận những giá trị bảo hiến đầu tiên, mô hình bảo hiến tuy chỉ mới hình thành nhưng đó là bước tiến lớn về tư tưởng lập hiến ở nước ta.
2.1.3. Bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980
Có thể bạn quan tâm!
- Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Các Mô Hình Bảo Hiến Điển Hình Trên Thế Giới.
- Mô Hình Tòa Án Hiến Pháp Ở Đức Bối Cảnh Hình Thành Của Mô Hình
- Bảo Hiến Theo Quy Định Của Các Hiến Pháp Trong Lịch Sử
- Những Ưu Điểm Và Hạn Chế Của Mô Hình Bảo Hiến Ở Việt Nam Do Việt Nam Không Tồn Tại Cơ Quan Bảo Hiến Chuyên Trách Nên Hoạt
- Yêu Cầu Xây Dựng Cơ Quan Bảo Hiến Chuyên Trách Ở Việt Nam Yêu Cầu Thứ Nhất Nhằm Khắc Phục Những Hạn Chế Của Cơ Chế Bảo
- Cơ Sở Xây Dựng Cơ Quan Bảo Hiến Chuyên Trách Ở Việt Nam Hiến Pháp Là Văn Bản Chính Trị, Xã Hội, Pháp Lý Thể Hiện Chủ Quyền Và
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1980 được xây dựng khi đất nước hoàn toàn độc lập, là điều kiện thuận lợi đưa đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 1980 là bản Hiến pháp đầu tiên có giá trị pháp lý trên toàn quốc, được nhân dân đón nhận, khẳng định độc lập chủ quyền cũng như con đường xã hội chủ nghĩa mà dân tộc đã lựa chọn.
Hiến pháp 1980 đã ghi nhận và kế thừa của cơ chế bảo hiến đã được quy định ở Hiến pháp 1959. Cơ chế bảo hiến Quốc hội được xây dựng và phát triển dựa trên nền tảng những quy định của Hiến pháp cùng với sự lựa chọn những ưu điểm từ Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1980 và cơ chế bảo hiến Quốc hội đã bước đầu đi vào thực tiễn trong hoàn cảnh đất nước đã hoàn toàn độc lập.
Đặc điểm mô hình bảo hiến: Hiến pháp 1980 vẫn quy định tiếp tục sử dụng mô hình bảo hiến như Hiến pháp 1959, lấy Quốc hội làm trung tâm, sử dụng cơ chế kiểm tra, giám sát để bảo vệ giá trị của Hiến pháp. Tại khoản 3, Điều 83, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 đã quy định: Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Quốc hội được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Căn cứ vào thẩm quyền được quy định, Quốc hội vẫn tiếp tục là cơ quan bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp.
Để bảo đảm thực hiện cơ chế bảo hiến, Hiến pháp 1980 đã quy định đầy đủ và thống nhất giá trị pháp lý của Hiến pháp 1980. Điều 146, Hiến pháp 1980 quy định: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của nhà nước, có giá trị pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Quy định được ghi nhận trong Hiến pháp thể hiện rõ ràng giá trị pháp lý của Hiến pháp, tạo nền tảng, cơ sở để đưa Hiến pháp vào thực tiễn xã hội và khiến cơ chế bảo hiến có thể được áp dụng trong hệ thống pháp luật. Quy định ngắn gọn nhưng chứ đựng sự đổi mới to lớn trong toàn bộ lịch sử lập hiến của nước ta, đưa Hiến pháp trở về đúng với giá trị.
Mô hình bảo hiến Quốc hội được áp dụng, tuy nhiên không tồn tại quy định pháp lý về trình tự, thủ tục xem xét xử lý các văn bản trái Hiến pháp, đồng thời các văn bản quy phạm pháp luật trái Hiến pháp cũng chưa có cách thức xử lý kịp thời nhằm đảm bảo giá trị tối cao của Hiến pháp. Từ trung ương đến địa phương, các cơ quan nhà nước đều có nhiệm vụ, thẩm quyền, giám sát kiểm tra Hiến pháp nhưng lại không có cơ quan chuyên trách xử lý các vi phạm liên quan đến Hiến pháp.
Kế thừa những tinh hoa từ những bản Hiến pháp trước, Hiến pháp 1980 cũng qui định cơ chế về việc tuân thủ và thực hiện Hiến pháp của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, công dân. Tuy nhiên, mô hình bảo hiến theo Hiến pháp 1980 vẫn mang tính hình thức, thiếu trình tự, khó đi vào hoạt động hiệu quả. Tinh thần lập hiến và bảo vệ Hiến pháp đã được hình thành nhưng do nhiều điều kiện khách quan mô hình bảo hiến vẫn chưa tồn tại đúng bản chất.
2.1.4. Bảo hiến theo Hiến pháp 1992
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 1992 là bản Hiến pháp có giá trị thực tiễn to lớn khi ban hành vào giai đoạn đất nước đang bắt đầu mở cửa hội nhập toàn cầu, kinh tế trong nước đang chuyển từ hình thức tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, xã hội Việt Nam cũng có những bước chuyển mình to lớn.
Tiếp tục kế thừa và duy trì tư tưởng các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, Hiến pháp 1992 vẫn lựa chọn mô hình bảo hiến quốc hội thông qua cơ chế giám sát, kiểm tra pháp luật của Quốc hội làm cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp 1992 thể chế hóa cụ thể và rõ ràng hơn việc giám sát và thực thi pháp luật, quy định rõ những thẩm quyền cụ thể của quốc hội, các cơ quan nhà nước khác trong viêc thi hành pháp luật.
Đặc điểm của mô hình: Hiến pháp năm 1992 xây dựng cơ chế bảo hiến thông qua kiểm tra giám sát các cơ quan quyền lực nhà nước và nhân
dân đối với cơ quan quyền lực nhà nước, đây là cơ chế giám sát tương đối toàn diện. Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước và giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Bên cạnh đó, các cơ quan khác cũng thực hiện chức năng giám sát việc tuân theo Hiến pháp và giám sát các văn bản quy phạm pháp luật khác để nó không trái với nội dung Hiến pháp.
2.2. Mô hình bảo hiến theo Hiến pháp năm 2013
Bối cảnh ra đời: Hiến pháp 2013 được Quốc hội thông qua ngày 18 tháng 11 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014. Hiến pháp 2013 là bản Hiến pháp thứ năm, là Hiến pháp mở ra thời kỳ mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp 2013 xây dựng trong hoàn cảnh lịch sử đặc thù, trong giai đoạn thế giới và đất nước đang từng bước thay đổi. Hiến pháp 2013 được xây dựng trên nền tảng nhất định, vững chắc, kế thừa thành tựu của những bản Hiến pháp đã qua cùng với kinh nghiệm lịch sử hơn 60 năm lập hiến, xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của việc sửa đổi Hiến pháp 1992 theo hướng hoàn thiện và tích cực hơn.
Hiến pháp 2013 đã thể chế hóa những vấn đề mới, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thực tiễn. Hiến pháp 2013 chưa ghi nhận chế định cơ quan bảo hiến chuyên trách, việc không ghi nhận một chế định liên quan đến bảo vệ Hiến pháp có nghĩa vẫn tuân thủ những nét cơ bản, tiếp tục áp dụng mô hình bảo vệ bảo hiến theo Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001: mô hình bảo hiến dựa trên cơ chế kiểm tra, giám sát của Quốc hội.
Trong suốt khoảng 10 năm trước thời điểm sửa đổi Hiến pháp 2013, vấn đề bảo hiến đã đặt ra. Năm 2004 là thời điểm bắt đầu xuất hiện những yêu cầu về cơ chế bảo vệ Hiến pháp khi có sự xuất hiện của văn bản pháp lý thể hiện đầy đủ và rõ ràng sự vi phạm Hiến pháp. Bộ Công an ra Thông tư số 02/2003/TT-BCA ngày 13/1/2003 quy định mỗi người chỉ được đăng ký một mô tô hoặc xe máy. Hệ quả Thông tư gây nên những xáo trộn trong
xã hội, nhân dân tìm cách để tăng số lượng xe gắn máy được sở hữu mà không chú ý đến quy định của Hiến pháp về quyền được sở hữu tài sản. Thông tư được ban hành, thực hiện trong khoảng thời gian khoảng 2 năm nhưng chỉ vấp phải sự phản đối của những chuyên gia trong lĩnh vực Hiến pháp. Đến khi người dân vấp phải sự khó khăn quá lớn khi thực hiện đã đồng loạt lên tiếng về sự bất cập của thông tư. Dựa vào những quy định về quyền sở hữu tài sản trong Hiến pháp có thể nhận thấy Thông tư 02/2003 đã vi phạm Hiến pháp. Tại điều 58, Hiến pháp 1992 quy định Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất… Quy định của Thông tư đã hạn chế quyền sở hữu tư liệu sinh hoạt của người dân, tài sản có được bằng những thu nhập hợp pháp thì không thể bị giới hạn số lượng. Người dân có thể sở hữu một, hai thậm chí nhiều hơn số xe mô tô gắn máy tùy vào điều kiện kinh tế của mình. Trước sức ép của dư luận cũng như sự vi hiến rõ ràng của Thông tư, Bộ Công an đã phải ban hành Thông tư số 17/2005/TT-BCA ngày 21/11/2005 về bãi bỏ quy định vi hiến kể trên. Tuy quy định đã không còn có giá trị pháp lý nhưng khoảng thời gian quy định tồn tại trong thực tế đã gây nên nhiều những hệ lụy mà cả xã hội phải chấp nhận. Chính từ thời gian này, yêu cầu về cơ chế bảo hiến hiệu quả xuất hiện. Đảng và nhà nước sau khoảng thời gian xem xét cũng đã có đánh giá bước đầu về tình hình thực tiễn cũng như lý luận để xây dựng cơ chế bảo hiến. Quan điểm ban đầu của Đảng và nhà nước ủng hộ việc hình thành cơ quan bảo hiến ở Việt Nam bằng hàng loạt những văn bản có tính pháp lý quan trọng như Nghị quyết 48 ngày 2/5/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2020 và Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X năm 2006 của Đảng. Dưới sự ủng hộ về tư tưởng của Đảng và nhà nước, các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam về lĩnh vực Hiến pháp dưới sự giúp đỡ chuyên gia nước ngoài bắt đầu xây dựng những cơ sở đầu tiên về mô hình bảo hiến cụ
thể mà Việt Nam có thể áp dụng. Giai đoạn ban đầu xuất hiện những phương án về cơ chế tài phán Hiến pháp ở nước ta bao gồm:
Phương án thứ nhất: thành lập Ủy ban bảo vệ Hiến pháp trực thuộc Quốc hội. Ủy ban bảo vệ Hiến pháp sẽ được tổ chức tương tự như các Ủy ban khác của Quốc hội, thực hiện nhiệm xem xét tính hợp hiến của những văn bản dưới luật của cá cơ quan nhà nước ban hành. Ủy ban không được xem xét những văn bản pháp lý mà Quốc hội ban hành và thẩm quyền được trao hoàn toàn mang tính tham vấn khi báo cáo kết quả xem xét tính hợp hiến với Quốc hội.
Phương án thứ hai: trao nhiệm vụ bảo hiến cho cơ quan Tư pháp mà chủ thể xác định là Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án nhân dân tối cao được trực tiếp trao quyền thực hiện nhiệm vụ bảo hiến, xem xét những văn bản pháp lý của cơ quan quyền lực nhà nước.
Phương án thứ ba: thành lập cơ quan bảo hiến độc lập. Cơ quan bảo hiến độc lập với Quốc hội, có thẩm quyền, trình tự và thủ tục bảo hiến riêng. Ở phương án này hướng đến những mô hình bảo hiến hiệu quả ở châu Âu bao gồm: Tòa án Hiến pháp và hội đồng Hiến pháp. Hai mô hình lớn trên thế giới và đã có hiệu quả khi đưa vào hoạt động thực tiễn.
Những phương án được đưa ra, chưa bàn đến những ưu nhược điểm hay hạn chế, vướng mắc có thể gặp phải khi thực hiện thì đây đều là những mô hình nếu có thể xây dựng sẽ là bước tiến lớn về hoạt động bảo vệ Hiến pháp ở nước ta. Bên cạnh sự ủng hộ xây dựng cơ chế bảo hiến mới ở nước ta thì cũng xuất hiện ý kiến phản đối việc hình thành cơ chế bảo hiến mới. Những cá nhân phản đối xây dựng mô hình bảo hiến mới đưa ra những lập luận xuất phát từ suy nghĩ chủ quan về sự cần thiết tồn tại về cơ chế bảo hiến mới.
Thứ nhất, mô hình bảo hiến quốc hội vẫn có thể tiếp tục tồn tại và hoạt động bình thường. Tại sao cần có sự thay đổi khi những văn bản vi
hiến tồn tại không quá nhiều, sự thay đổi sẽ mang lại những hệ lụy không tốt cho đất nước. Chỉ nên có sự thay đổi để làm tăng tính hiệu quả của cơ chế bảo hiến Quốc hội chứ không thể thay đổi hoàn toàn và tiến hành xây dựng mới.
Thứ hai, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật hạn chế những sai sót có thể mắc phải. Lập luận cho rằng hoàn thiện từ khâu xây dựng văn bản pháp luật với trình tự, thủ tục, cơ quan ban hành được quy định đầy đủ, chặt chẽ, rõ ràng, chính xác là sẽ hạn chế được vi hiến trong thực tiễn.
Thứ ba, đây cũng là lập luận phản đối được xem là quan trọng nhất khi khẳng định xây dựng bất kỳ cơ quan bảo hiến dưới dạng thức như thế nào cũng vi phạm nguyên tắc tập quyền theo kiểu Liên Xô. Khi xây dựng cơ quan bảo hiến, quyền lực của Quốc hội sẽ bị đe dọa, nguyên tắc tập trung quyền lực sẽ không được thực hiện đúng như định hướng. Lập luận dựa trên nhìn nhận về một Hiến pháp với chức năng chính trị là chủ yếu khi định hướng những quy định trong Hiến pháp chỉ tồn tại để thực hiện những mục đích nhất định của hệ thống chính trị.
Quá trình tranh luận và đóng góp ý kiến về mô hình bảo hiến diễn ra sôi nổi hơn vào thời điểm những năm bắt đầu quy trình sửa đổi Hiến pháp. Các nhà khoa học cũng như người dân đều hy vọng cơ quan tài phán hay một cơ chế bảo hiến bất kỳ có thể được xuất hiện trong Hiến pháp mới. Hy vọng đó càng lớn khi tại dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 2012: mô hình hội đồng Hiến pháp được ghi nhận như là một chương của dự thảo Hiến pháp. Còn nhiều câu hỏi về thẩm quyền cũng như trình tự thủ tục, tính hiệu quả của mô hình hội đồng Hiến pháp tuy nhiên so với cơ chế bảo hiến vẫn đang tồn tại là bước tiến đáng được ghi nhận. Tuy nhiên được chờ đợi nhưng do những nguyên nhân khác nhau mà chủ yếu là chủ quan mô hình hội đồng bảo hiến đã không được ghi nhận vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đồng thời không có bất cứ quy định nào về bảo