Sử Dụng Di Sản Hoàng Thành Thăng Long Để Tiến Hành Tổ Chức Thảo Luận Nhóm

lịch sử rất phong phú, dễ sưu tầm và phù hợp với việc tạo biểu tượng. Khi sử dụng biện pháp này, giáo viên cần chú ý:

+ Lựa chọn các hình ảnh phù hợp với nội dung biểu tượng cần tạo cho học sinh;

+ Bảo đảm tính chính xác, khoa học, tính giáo dục và thẩm mỹ;

+ Kết hợp đa dạng nhiều phương pháp khác nhau để đạt hiệu quả.

Ví dụ, giáo viên sử dụng biểu tượng rồng trên hoa văn và vật liệu xây dựng trong nội dung bài 20: “Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X – XV”, mục I: “Tư tưởng, tôn giáo” để học sinh hiểu được sức ảnh hưởng của tư tưởng lúc bấy giờ. Giáo viên có thể đặt học sinh vào tình huống cần giải quyết với câu hỏi lớn: “Tại sao thế kỉ XV, Nho giáo lại chiếm ưu thế hơn Phật giáo của thế kỉ X – XIV?”. Để có thể giúp học sinh hiểu được vị trí độc tôn của Nho giáo, giáo viên sử dụng hình ảnh rồng khắc trên hoa văn hoặc trên thềm Điện Kính Thiên, giới thiệu về chạm khắc rồng trên lá đa, lá đề, hoa cúc, nêu sự khác nhau giữa các con rồng qua mỗi triều đại. Trọng tâm của nội dung cần chú ý khai thác sự khác nhau của hình tượng con rồng qua các triều đại. “Vào thời Lê (1428 – 1527), Nho giáo được trọng dụng làm công cụ xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước. Từ thế kỷ XV, Nho giáo trở thành tư tưởng chính thống thay thế vai trò của Đạo Phật, tạo cho nhà vua những phương tiện để điều hành đất nước hiệu quả hơn. Nho giáo ủng hộ triệt để chế độ xã hội có tôn ti và đẳng cấp, trong đó, Hoàng đế là người có quyền lực tối cao, là đại diện cho Trời trên trần gian. Hình tượng đầy quyền uy của vua là con rồng. Hình tượng rồng xuất hiện khắp nơi trong kiến trúc Hoàng thành và trên các hiện vật khảo cổ tìm thấy tại khu Di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu” [40, tr. 74].

Giáo viên có thể giao nhiệm vụ trước cho học sinh về nhà tìm hiểu “hình tượng rồng qua các triều đại Lý – Trần – Lê sơ”. Trên lớp, giáo viên giới thiệu cho học sinh những nét điển hình nhất của hình tượng rồng trong nghệ thuật kiến trúc bằng các đoạn miêu tả:

“Lịch sử có sự chuyển tiếp giữa các triều đại là một quy luật tất yếu. Từ Lý chuyển sang Trần, hình tượng con rồng đã có nhiều thay đổi. Đó không chỉ là sự thay đổi đơn thuần về phong cách, tạo hình mập mạp, khỏe khoắn thay cho hình ảnh chau chuốt, tinh tế mà còn là sự thay đổi của một quan niệm về hình tượng. Chính sự bành trướng của Nho giáo cùng với sự lớn mạnh của chế độ tập quyền thời Trần đã làm cho hình tượng con rồng thời kỳ này tiến thêm một bước trên con đường phong kiến hóa. Rồng thời Trần có vẻ dũng mãnh hơn, đầy sức sống, thân rồng mập, uốn lượn không đều, có vây, có vảy bụng chứ chưa có trên thân, đầu chỉ có 2 bờm, chân 3 móng,… ẩn hiện sau rồng là mây. Thân rồng thời Trần vẫn giữ dáng dấp như thời Lý, với các đường cong tròn nối nhau, các khúc trước lớn, các khúc sau nhỏ dần và kết thúc như đuôi rắn. Có thể nói, rồng thời Trần tuy được kế thừa hình tượng rồng thời Lý nhưng nó thực sự đã tạo cho mình những đặc điểm riêng khỏe khoắn, mạnh mẽ như chính thời đại sản sinh ra nó, mang tính chất đặc thù của một con rồng của chế độ phong kiến thời Trần”.

Nhưng con rồng thời Lê sơ không uốn theo hình lá đề như thời Lý – Trần và chân của nó thường có 5 móng sắc nhọn, dấu hiệu biểu trưng đẳng cấp và quyền uy của Hoàng đế” [40, tr. 74].

Bên cạnh đó, ảnh hưởng của Phật giáo Đạo giáo hay Nho giáo còn thể hiện qua các hiện vật và phong cách biểu đạt văn hóa của Hoàng thành, đặc biệt trong giai đoạn từ thế kỉ XI – XIV. “Bằng chứng là nhiều ngôi chùa dành riêng cho đời sống tôn giáo của Hoàng gia, hoặc các loại vật liệu xây dựng các chân đế cột (bằng đá tạc hình hoa sen), các họa tiết kiến trúc (ngói lợp diềm mái hiên trang trí hình lá đề đặc trưng cho kiến trúc cung điện ở Việt Nam và nhiều hiện vật khác (bao gồm cả đồ gốm) được tìm thấy có hình tượng của đạo Phật. Hình ảnh trang trí lá đề có mặt ở các chùa Phật Việt Nam và cũng có mặt ở tất cả các công trình kiến trúc cung điện thời Lý – Trần. Việc tìm thấy viên gạch in chữ Hưng Hóa thiền tự cho biết rõ đây là viên gạch xây chùa Hưng Hóa thời Lý. Bên cạnh đó còn có nhiều loại gạch in

hình tháp Phật hay những mảnh vỡ của mô hình tháp Phật bằng đất nung hoặc bằng sứ trắng trang trí hoa sen, tiên nữ” [40, tr. 72-73].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 145 trang tài liệu này.

Như vậy, chỉ qua hình tượng rồng hay vật liệu kiến trúc giáo viên hướng học sinh khai thác trên khía cạnh tư tưởng ảnh hưởng tới từng triều đại khác nhau. Từ đó, học sinh trả lời khái quát câu hỏi lớn của mục I: “Tư tưởng, tôn giáo” đã đặt ra từ đầu bài học: Nho giáo chiếm vị trí độc tôn vì lúc này nhà nước quân chủ chuyên chế chế độ phong kiến Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao và hoàn chỉnh, mong muốn xây dựng nguyên tắc trung thành tuyệt đối với nhà vua, thể hiện uy quyền của vua ngày càng mạnh mẽ.

Với biểu tượng về kiến trúc điêu khắc, giáo viên sử dụng để dạy bài 20: “Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X – XV”, mục II: “Giáo dục, văn học, nghệ thuật, khoa học – kĩ thuật”, phần 3: “Nghệ thuật”. Giáo viên có thể chia nhóm học sinh để tìm hiểu lần lượt từng câu hỏi:

Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long trong dạy học Lịch sử Việt Nam Lớp 10 trường trung học phổ thông Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định - 10

+ “Kể tên những kiến trúc tiêu biểu thế kỉ X – XV, phân biệt đâu là kiến trúc ảnh hưởng đạo Phật, Nho giáo?”

+ “Nêu nét độc đáo trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc?”

+ “Nhận xét gì về đời sống văn hóa của nhân dân thời Lý – Trần – Hồ?”

Giáo viên tập trung cho học sinh khai thác các tác phẩm điêu khắc mang họa tiết hoa văn độc đáo mang âm hưởng của Đạo Phật và Nho giáo. Đồ án trang trí lá đề, rồng, phượng có mặt ở các chùa Phật và kiến trúc cung điện thời Lý – Trần đều được tạo dáng, bố cục theo khuôn hình lá đề. Đặc biệt là mảnh tháp sứ men trắng trang trí hình tiên nữ (Apsara) đang nhảy múa mang đậm phong cách nghệ thuật Chămpa, là một minh chứng sinh động ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ đến Thăng Long vào thời Lý. Những mô típ hoa văn mang phong cách Chămpa tương tự như hình ảnh chim thần (Garuda) hay nữ thần (Kinnari) xuất hiện đồng thời và hòa quyện với những mô típ hình rồng, hoa lá mang đặc trưng phong cách Việt, phản ánh rõ sự dung hợp giữa hai nền văn hóa, đồng thời là sự ảnh hưởng sâu đậm của nghệ thuật Chămpa đến nghệ thuật Hoàng cung đương thời.

Như vậy, với từng nội dung khác nhau, giáo viên có thể vận dụng linh hoạt những hiện vật được trưng bày tại Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long để cung cấp cho học sinh những thông tin về sự kiện lịch sử đã diễn ra tại đây. Đồng thời, với việc sử dụng hợp lý sẽ giúp học sinh hiểu rõ bản chất của hiện vật, hình dung và đưa ra những nhận định lịch sử đúng đắn.

Trong dạy học lịch sử, những hiện vật trong khu Di sản Hoàng thành Thăng Long chính là những minh chứng lịch sử sống động và cụ thể nhất giúp học sinh có được biểu tượng sâu sắc về từng thời đại. Nhưng trước hết, với bộ môn Lịch sử, việc tạo biểu tượng về các sự kiện lịch sử cơ bản chính là cách giúp học sinh hiểu rõ quá khứ. Với giá trị lịch sử trải dài suốt 13 thế kỷ, Hoàng thành Thăng Long thể hiện được tính liên tục dài lâu của sự phát triển chính trị, văn hóa. Điều quan trọng là trong từng tiết dạy học trên lớp và cả quá trình dạy học, giáo viên phải thường xuyên hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra học sinh sẽ giúp bài học trở nên sinh động, học sinh dễ nhớ, dễ hình dung về các sự kiện hiện tượng lịch sử được cung cấp trong bài học. Đồng thời qua đó giúp các em hiểu hơn về chính di sản đang được tìm hiểu, giá trị toàn cầu mà di sản mang lại. Từ đó, học sinh được định hướng thị hiếu thưởng thức văn hóa và là đối tượng tuyên truyền, bảo vệ và phát huy những giá trị di sản quý giá.

- Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tạo biểu tượng thông qua việc xây dựng các đoạn miêu tả sự kiện lịch sử

Đối với những sự kiện, hiện tượng xảy ra trong lịch sử, không có trong sách giáo khoa, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Hoàng thành Thăng Long như: các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu thế kỉ I đến đầu thế kỉ X; xây dựng thành Cổ Loa; Công cuộc dời đô của nhà Lý; phát triển kinh tế, văn hóa thế kỉ X - XV... Giáo viên sử dụng tài liệu viết về Hoàng thành Thăng Long để liên hệ thực tế khi dạy học những sự kiện lịch sử dân tộc, đồng thời giúp học sinh biết được những đóng góp của thế hệ trước đối với quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển văn hóa truyền thống dân tộc. Có thể thấy, tài liệu viết về Hoàng thành Thăng Long trong phạm vi Lịch sử Việt

Nam lớp 10 khi liên hệ, minh họa cho những sự kiện, hiện tượng lịch sử dân tộc là vô cùng phong phú và đa dạng. Giáo viên cần khai thác một cách triệt để nhằm làm phong phú thêm kiến thức lịch sử dân tộc.

Ví dụ, để giải thích lý do lựa chọn địa thế của Kinh thành trong Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ năm 1010, giáo viên có thể trích dẫn một đoạn trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết: “Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: ở nơi trung tâm trời đất; được thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”. [12, tr. 240-241]. Trung tâm của quy hoạch Hoàng thành chính là núi Nùng. Đó là một khu đất cao hơn hẳn các khu vực xung quanh, đất Long Đỗ (Rốn rồng), đất thiêng của cả Kinh thành và đất nước, là nguồn gốc tạo nên sức mạnh Hoàng thành. Việc chọn địa thế của Kinh thành cũng như phương hướng của thành Thăng Long được coi là mẫu mực trong kiến trúc quy hoạch hiện nay.

Hoặc, để có thể hình dung sơ lược về khu Di sản 18 Hoàng Diệu, giáo viên có thể sử dụng đoạn miêu tả sau: “Di tích này bao gồm tầng dưới cùng là một phần bên phía đông của thành Đại La dưới thời Cao Biền, nhà Đường, tầng trên là cung điện nhà Lý và nhà Trần, tiếp theo là một phần trung tâm của đông cung nhà Lê và trên cùng là một phần của trung tâm tòa thành tỉnh Hà Nội thế kỷ 19. Bề mặt Lý – Trần ở tầng hai có rất nhiều hiện vật được phát hiện, như những nền cung điện, có kích thước một chiều hơn 60 mét, chiều kia 27 mét. Có 40 chân cột, rồi cả giếng cổ, gạch, phù điêu. Có tượng rồng, phượng mà được các nhà nghiên cứu mỹ thuật khẳng định là mô típ hoa văn thời Lý. Rồi đến những tầng lớp bên trên, thời Lê, Nguyễn đều tìm được nhiều hiện vật. Tổng cộng là ba triệu hiện vật. Khi tiến hành khai quật ở hố B16 thuộc địa điểm dự kiến xây dựng toà nhà Quốc hội mới, Viện khảo cổ học

đã phát hiện một toà lâu đài 3 tầng lầu, 4 mái, dạng hình tháp toạ lạc trên một diện tích xấp xỉ 1000 m2 thuộc hệ thống các cung điện Thăng Long xưa. Theo đánh giá thì đây là công trình đầu tiên, có tầm cỡ và giá trị nhất được tìm thấy từ trước đến nay” [41].

Với đoạn miêu tả ngắn gọn trên, giáo viên có thể giúp học sinh nhận rõ vị trí và giá trị lịch sử mà khu di sản đem lại. Từ đó, giáo viên khắc sâu quy mô hoành tráng và tầm ảnh hưởng của Kinh thành Thăng Long trong lịch sử dân tộc.

Tóm lại, các hình tượng nêu trên giúp cho học sinh có biểu tượng cụ thể về một hay nhiều sự kiện lịch sử. Việc cung cấp cho học sinh những sự kiện lịch sử cụ thể sinh động để tạo biểu tượng là bước đầu quan trọng của việc dạy học lịch sử ở trường THPT. Trong quá trình giảng dạy, sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tạo biểu tượng về các sự kiện lịch sử cơ bản là cách đưa học sinh vào chính hoàn cảnh đang diễn ra trong lịch sử. Đồng thời, việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, ý thức bảo tồn di sản của học sinh là thước đo sau mỗi bài dạy về di sản văn hóa, đặc biệt với di sản Hoàng thành Thăng Long - công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di tích Việt Nam.

2.4.2. Sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long để tiến hành tổ chức thảo luận nhóm

Nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập khác nhau, giáo dục dạy và học lịch sử có nhiểu hình thức hợp tác theo nhóm, ví dụ để cùng nghiên cứu một đề tài lịch sử, cùng giải quyết một tình huống được đặt ra. Ở đây, thảo luận nhóm được sử dụng với ý nghĩa là một phương pháp dạy học trên lớp. Thông qua sự tham gia, trao đổi ý kiến của các thành viên dựa trên sự phân công cụ thể của một hay nhiều nhóm nhỏ. Đây là cách thức giáo viên tổ chức, hướng dẫn, điều khiển quá trình các nhóm học sinh trao đổi ý kiến về nội dung học tập nhằm đạt được mục tiêu dạy học. Trong một buổi học, có thể thảo luận

nhiều câu hỏi/chủ đề khác nhau có liên quan tới một nội dung tương đối hoàn chỉnh của buổi học.

Thảo luận nhóm có ý nghĩa quan trọng bởi nó tạo cơ hội cho tất cả các thành viên tham gia phát biểu ý kiến, tăng cường sự hợp tác và tinh thần làm việc nhóm chủ động. Bên cạnh đó, thảo luận nhóm giúp học sinh tiến hành tự kiểm tra, đánh giá, khẳng định mình trước tập thể, tạo không khí sôi nổi trong giờ học, rèn luyện kĩ năng diễn đạt trước nơi đông người. Đối tượng nghiên cứu mà chúng tôi hướng tới là học sinh trường THPT Nguyễn Bính, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Học tập trong môi trường chưa có nhiều cơ hội để bộc lộ những kỹ năng cần thiết nói trên, các em rất cần được bổ sung và hoàn thiện các kỹ năng như: trình bày, tìm kiếm, lựa chọn thông tin, nhận xét, đánh giá, thuyết trình, làm việc nhóm,.... Chính vì vậy, việc tổ chức thảo luận nhóm thông qua sử dụng di sản Hoàng thành Thăng Long là bước tiến giúp các em có thể phát triển và bồi dưỡng các kỹ năng nói trên thông qua việc tự thu thập, lựa chọn, sắp xếp thông tin dựa trên sự góp ý của giáo viên, tiến hành trình bày trước tập thể lớp.

Để có thể tổ chức tốt cho một buổi thảo luận nhóm cần thực hiện theo các bước sau:

+ Bước 1: Chuẩn bị của mỗi cá nhân (theo hướng dẫn của thầy (cô), có thể hướng dẫn chuẩn bị trước ở nhà hoặc chuẩn bị ngay trên lớp, tùy theo tính chất của mỗi chủ đề).

+ Bước 2: Thảo luận nhóm với một chủ đề xác định, mà kết quả là có một bài trả lời chung cho cả nhóm. Các thành viên trong nhóm thay thế nhau làm các nhiệm vụ: nhóm trưởng, thư ký ghi biên bản thảo luận, trình bày trước ở nhóm, đại diện nhóm trình bày ở lớp.

+ Bước 3: Thảo luận chung tại lớp. Đại diện các nhóm thay nhau trình bày kết quả thảo luận nhóm mình. Các thành viên trong lớp tham gia chất vấn, bổ sung, đóng góp ý kiến cho nhóm trình bày. Bên cạnh đó cần có một số tiêu

chí đánh giá chung hoạt động cho từng nhóm như: phiếu đánh giá hoạt động nhóm; biên bản làm việc nhóm,…

+ Bước 4: Nhận xét, đánh giá việc thảo luận, tóm tắt nội dung chính, hoặc hướng dẫn để tiếp tục nghiên cứu thêm để hoàn chỉnh hơn nội dung câu hỏi.

Với đối tượng học sinh này, giáo viên cần hướng dẫn cách khai thác thông tin một cách chi tiết và và đơn giản nhất để các em tiếp cận và tổ chức thảo luận nhóm hiệu quả.

Ví dụ khi học về bài 20: “Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỷ X - XV”, mục II: “Giáo dục, văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật”, mục 3: “Nghệ thuật”, giáo viên có thể chia cả lớp thành các nhóm, cung cấp cho các nhóm những tài liệu về các công trình kiến trúc nổi bật tại Hoàng thành Thăng Long như: Thềm điện Kính Thiên, Đoan Môn, Hậu Lâu, kiến trúc vòm trong Hoàng thành, con đường lát gạch đá hoa chanh trước Đoan Môn,… sau đó giáo viên hướng dẫn cách thu thập tài liệu về công trình đó. Khi đã chuẩn bị xong, giáo viên sẽ để các nhóm trình bày các sản phẩm mà các em đã sưu tầm, phát hiện được trước cả lớp.

Hoặc trong bài 18: “Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế kỉ X – XV”, giáo viên đặt ra tình huống cần giải quyết bằng một câu hỏi lớn: “Những biểu hiện của phát triển kinh tế đã dẫn đến sự phân hóa xã hội như thế nào ở thế kỉ XIV ?”. Dựa vào nội dung thảo luận nêu trên, giáo viên chia lớp thành 3 nhóm với những câu hỏi nhỏ dành cho từng nhóm như sau:

- Nhóm 1: Về nông nghiệp

+ Nhà nước phong kiến và nhân dân Đại Việt đã làm gì để phát triển kinh tế nông nghiệp?

+ Sự phát triển nông nghiệp đương thời có ý nghĩa như thế nào đối với xã hội?

+ Đọc một số câu thơ, đoạn văn ngắn mô tả nông nghiệp nước ta lúc bấy giờ.

- Nhóm 2: Về thủ công nghiệp

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/06/2023