- Trách nhiệm của cơ quan Trung ương Nước gốc: Nếu xét thấy trẻ em có đủ điều kiện cho làm con nuôi, Cơ quan Trung ương của nước gốc chuyển hồ sơ của người nhận con nuôi đến cơ quan có thẩm quyền của nước mình để giải quyết và thông báo cho Cơ quan trung ương của Nước tiếp nhận.
- Thủ tục giới thiệu trẻ làm con nuôi: Cơ quan Trung ương của nước gốc gửi văn bản thông báo cho cơ quan Trung ương của Nước tiếp nhận về trẻ em được giới thiệu làm con nuôi với đầy đủ các thông tin cá nhân của trẻ. Cơ quan Trung ương của Nước tiếp nhận, trong thời hạn sớm nhất phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan Trung ương của Nước gốc về ý kiến của người nhận con nuôi về trẻ em được giới thiệu.
- Thủ tục giao nhận con nuôi và hoàn tất thủ tục nuôi con nuôi tại Nước nhận: Việc giao con nuôi cho người nhận con nuôi được thực hiện theo pháp luật của nước gốc. Sau khi hoàn tất thủ tục nuôi con nuôi theo qui định của Nước nhận, cơ quan trung ương của nước nhận phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan Trung ương của nước gốc biết việc này.
e. Nghĩa vụ hợp tác
Phần này có các qui định nhằm xác định nghĩa vụ hợp tác của các bên trong việc bảo vệ trẻ em như trao đổi thông tin về trẻ, hợp tác để cùng thực hiện Hiệp định cũng như thành lập nhóm công tác hỗn hợp gồm các thành viên của các bên để đại diện trong việc xem xét và đánh giá tình tình thực hiện Hiệp định.
Điều khoản cuối cùng của các Hiệp định qui định về hiệu lực và thời hạn hiệu lực cũng như việc sửa đổi, bổ sung Hiệp định.
Đến thời điểm hiện nay, trong 16 Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi thì 2 Hiệp định đã hết hiệu lực (Vương quốc Thuỵ Điển, Ai-len), 1 Hiệp định vẫn còn hiệu lực (Mỹ) nhưng phía Mỹ đang tạm thời dừng quan hệ nuôi con nuôi với Việt Nam từ năm 2008 , còn 3 Hiệp định chưa có hiệu lực (3 cộng đồng thuộc Vương quốc Bỉ). Như vậy, hiện nay chỉ còn 10 Hiệp định đang có hiệu lực và 1 bản ghi nhớ hợp tác với Ailen.
Sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước Lahay thì các quốc gia đã tham gia công ước Lahay (tất cả các nước ký Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam đều đã tham gia ký kết Công ước Lahay 1993) có chung một chế định để tuân thủ và việc hợp tác giữa các quốc gia sẽ có nhiều thuận lợi. Ngay trong các Hiệp định hợp tác về con nuôi giữa Việt Nam và các nước đều
ghi nhận khi Việt Nam tham gia Công ước Lahay thì hai bên sẽ tiếp tục hợp tác theo Công ước Lahay. Điển hình mới nhất là quan hệ về con nuôi giữa Việt Nam và Ailen, ngay khi Việt Nam tham gia Công ước Lahay thì giữa Việt Nam và Ailen đã ký Bản ghi nhớ việc tiếp tục hợp tác về con nuôi.
Có thể bạn quan tâm!
- Số Liệu Trẻ Em Việt Nam Được Người Nước Ngoài Nhận Nuôi Từ 1990-2000[1]
- Thứ Tự Ưu Tiên Lựa Chọn Gia Đình Thay Thế Được Thực Hiện Quy Định Sau Đây:
- Tình Hình Ký Kết Và Thực Hiện Các Điều Ước Quốc Tế Về Nuôi Con Nuôi Của Việt Nam
- Pháp Luật Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Của Một Số Nước Trên Thế Giới, So Sánh Với Pháp Luật Việt Nam
- Pháp Luật Nuôi Con Nuôi Có Yếu Tố Nước Ngoài Của Ấn Độ
- Số Lượng Trẻ Em Guatemala Được Người Nước Ngoài Nhận Nuôi Từ Năm 1997 Đến Tháng 7/2005 [21]
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
1.4.3. Tình hình ký kết và thực hiện Công ước Lahay 1993
Ngày 18 tháng 7 năm 2011 Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã ký Quyết định số 1103/2001/QĐ-CTN phê chuẩn Công ước Lahay số 33 ngày 29/5/1993 về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế. Bộ Tư pháp đã tích cực phối hợp với Bộ Ngoại giao hoàn thành các thủ tục đối ngoại và Công ước này chính thức có hiệu lực thi hành tại Việt Nam từ ngày 01 tháng 2 năm 2012.
Việc ra đời Luật Nuôi con nuôi 2010 và ký kết Công ước Lahay 1993 của Việt Nam thể hiện bước tiến vượt bậc và là minh chứng chứng tỏ pháp luật Việt Nam đã nâng lên một tầm cao mới trong hội nhập quốc tế về lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
a. Nội dung của Công ước Lahay 1993
Công ước Lahay được lập ngày 29 tháng 5 năm 1993 thành một bản duy nhất bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, văn bản đều có giá trị như nhau và được gửi lưu chiểu tại cơ quan lưu trữ của Chính phủ Vương quốc Hà Lan.
Đến thời điểm hiện tại, có 87 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia Công ước này (tham khảo phần Phụ lục 2.3). Hoa kỳ cũng là thành viên của Công ước này tuy nhiên Hoa kỳ có văn bản công bố không nhận con nuôi của 8 nước thành viên là: Campuchia, Cape Verde, Fiji, Guatemala, Kazakhstan, Montemala, Rwanda, Senegal, Swanda, Việt Nam.
Công ước hướng đến ba mục tiêu:
- Bảo đảm việc nuôi con nuôi quốc tế vì lợi ích và tôn trọng quyền trẻ em;
- Hợp tác ngăn ngừa việc bắt cóc, bán hoặc buôn bán trẻ em;
- Công nhận việc nuôi con nuôi đã tiến hành ở các quốc gia thành viên.
Công ước chỉ áp dụng đối với những trường hợp nuôi con nuôi tạo ra mối quan hệ cha mẹ-con cái lâu dài giữa trẻ em thường trú ở một quốc gia thành viên và người nhận con nuôi thường trú ở Nước thành viên và sau đó trẻ em sẽ di chuyển đến nước thường trú của cha mẹ nuôi.
Công ước Lahay 1993 bao gồm 7 chương với 48 điều qui định về: phạm vi áp dụng; những yêu cầu với việc nuôi con nuôi quốc tế; các cơ quan trung ương và các tổ chức được chỉ định; những yêu cầu về thủ tục đối với việc nuôi con nuôi quốc tế; công nhận và hệ quả của việc nuôi con nuôi; những qui định chung; những điều khoản cuối cùng.
b. Phạm vi áp dụng
Chỉ áp dụng với các nước ký Công ước này, tại khoản C điều 1 qui định: “Đảm bảo các Nước ký kết sự công nhận nuôi con nuôi được tiến hành theo Công ước”.
Tại điều 2 cũng qui định:
1. Công ước phải được áp dụng khi một trẻ em thường trú ở một Nước ký kết (Nước gốc) đã, đang hoặc sẽ được chuyển đến một Nước ký kết khác (Nước nhận) sau khi đã được một cặp vợ chồng hay một người thường trú ở Nước nhận nhận làm con nuôi tại Nước gốc, hoặc vì mục đích của việc nuôi con nuôi như vậy tại Nước nhận hay Nước gốc.
2. Công ước chỉ áp dụng đối với những trường hợp nuôi con nuôi tạo ra mối quan hệ cha mẹ và con lâu dài.
c. Những yêu cầu với việc nuôi con nuôi quốc tế
Công ước nêu ra việc nuôi con nuôi quốc tế phải đảm bảo đủ các điều kiện về trẻ em và cha mẹ nuôi của nước gốc và nước nhận.
Điều 4 qui định đối với nước gốc như sau: Việc nuôi con nuôi trong phạm vi Công ước chỉ được thực hiện các nếu cơ quan có thẩm quyền của nước gốc đã:
a) Xác định rằng trẻ em có thể được làm con nuôi;
b) Xác định việc nuôi con nuôi quốc tế là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em sau khi đã xem xét kỹ lưỡng các khả năng chăm sóc các em tại Nước gốc;..
c) Đảm bảo rằng:
- Không có bất kỳ một sự trả tiền hay bồi thường nào để có được sự đồng ý này cũng như sự đồng ý đó đã không bị rút lại;
- Sự đồng ý của người mẹ, nếu có yêu cầu, chỉ được đưa ra sau khi trẻ em đã được sinh ra…
d) Sau khi đã tính đến tuổi và mức độ trưởng thành của trẻ em, đảm bảo:
- Trẻ em đã được tham khảo ý kiến và đã được thông báo đầy đủ về những hệ quả của việc làm con nuôi và của việc các em đồng ý làm con nuôi, nếu đòi hỏi phải có sự đồng ý đó;
- Đã xem xét những mong muốn và ý kiến của trẻ em.
Tại điều 5 qui đinh đối với nước nhận:
Việc nuôi con nuôi trong phạm vi Công ước sẽ chỉ diễn ra nếu các cơ quan có thẩm quyền của nước nhận:
a) Xác nhận cha mẹ nuôi tương lai có đủ tư cách và thích hợp để nuôi con nuôi;
b) Được đảm bảo rằng cha mẹ nuôi tương lai đã được tham vấn ở mức độ cần thiết;
c) Xác nhận trẻ em được hoặc sẽ được phép nhập cảnh và thường trú tại quốc gia đó.
d. Các cơ quan trung ương và các tổ chức được chỉ định
Mỗi nước tham gia Công ước đều phải có cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi quốc tế và chỉ định cơ quan Trung ương này thực hiện các nghĩa vụ và là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vấn đề về nuôi con nuôi quốc tế. Qui định các tổ chức được chỉ định và giao phó trong hoạt động nuôi con nuôi quốc tế. Trích điều 6: “ Mỗi nước ký kết phải chỉ định một cơ quan Trung ương để thực hiện các nghĩa vụ mà Công ước qui định cho cơ quan như vậy”.
Trích điều 7: “Các cơ quan Trung ương phải hợp tác với nhau và thúc đẩy sự hợp tác giữa các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó để đảm bảo bảo vệ trẻ em và thực hiện các mục đích khác của Công ước”
Điều 11: “Một tổ chức chỉ định phải:
a) Theo đuổi chỉ những mục đích phi lợi nhuận theo những điều kiện và trong những giới hạn mà cơ quan có thẩm quyền của quốc gia chỉ định xác lập.
b) Được đặt dưới sự giám sát của các cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó về cơ cấu, hoạt động và tình trạng tài chính.
Điều 12: “Một tổ chức được chỉ định ở một Nước ký kết này chỉ có thể hoạt động ở một Nước ký kết khác nếu như tổ chức này được các cơ quan có thẩm quyền của cả hai Nước cho phép làm như vậy.
e. Những yêu cầu về thủ tục đối với việc nuôi con nuôi
Qui định việc áp dụng pháp luật của nước gốc và nước nhận đối với việc cho nhận con nuôi quốc tế và các nguyên tắc chung nhất trong cả quá trình cho nhận con nuôi quốc tế.
Điều 14: “ Những người thường trú ở Một nước ký kết này muốn nhận trẻ em thường trú ở Một nước ký kết khác làm con nuôi cần phải liên hệ với Cơ quan Trung ương của Nước nơi họ thường trú”.
Qui định đối với Nước nhận, tại điều 15:
1. Nếu cơ quan Trung ương của Nước nhận cho rằng những người xin con
nuôi đáp ứng các điều kiện và thích hợp để nuôi con nuôi thì phải làm một báo cáo bao gồm những thông tin về nhân thân, tư cách pháp lý và sự phù hợp để nuôi con nuôi, về tình trạng cá nhân, gia đình và lí lịch y tế, về môi trường xã hội, về những lý do xin con nuôi, về khả nămg đảm nhận việc nuôi con nuôi quốc tế cũng như các đặc điểm của trẻ em mà họ thấy thích hợp để nuôi.
2. Cơ quan Trung ương của nước nhận nói trên phải chuyển báo báo cho cơ quan Trung ương của nước gốc. Qui định đối với nước gốc, trích điều 16: “Cơ quan Trung ương của nước gốc phải chuyển cho cơ quan Trung ương của nước nhận báo cáo về trẻ em, bằng chứng về những sự đồng ý cần thiết đã có được và những lý do xác nhận việc giới thiệu trẻ em, đồng thời tránh để lộ danh tính của cha mẹ, nếu danh tính của họ không thể được tiết lộ tại Nước gốc”.
f. Công nhận và hệ quả của việc nuôi con nuôi
Qui định về việc công nhận và hệ quả việc nuôi con nuôi của nước gốc và nước nhận, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho trẻ được nhận làm con nuôi. Điều 26 qui định:
1. Việc công nhận nuôi con nuôi bao gồm việc công nhận:
a) Mối quan hệ pháp lý cha mẹ - con giữa trẻ em và cha mẹ nuôi;
b) Trách nhiệm cha mẹ của cha mẹ nuôi đối với trẻ em;
c) Việc chấm dứt mối quan hệ pháp lý tồn tại trước đó giữa trẻ em và cha mẹ đẻ nếu việc nuôi con nuôi có hệ quả như vậy tạiNước ký kết nơi thực hiện việc nuôi con nuôi đó
2. Nếu việc nuôi con nuôi dẫn đến việc chấm dứt mối quan hệ pháp lý tồn tại trước đó giữa trẻ em và cha mẹ đẻ thì trẻ em phải được hưởng tại nước nhận, và tại bất kỳ các nước ký kết nào khác mà công nhận việc nuôi con nuôi đó, những quyền tương tự như những quyền phát sinh do việc nuôi con nuôi có hệ quả như vậy tại mỗi nước.
3. Những khoản trên không làm ảnh hưởng đến việc áp dụng bất kỳ một điều khoản nào có lợi hơn với trẻ em đang có hiệu lực tại nước ký kết mà công nhận việc nuôi con nuôi đó.
g. Những qui định chung
Đưa ra những qui định chung đối với các nước ký kết Công ước Lahay 1993 về việc cho nhận nuôi con nuôi quốc tế. Các qui định này dựa trên nguyên tắc tôn trọng và tuân thủ luật pháp của nước gốc và nước nhận cũng như tuân thủ các nguyên tắc của Công ước.
Tại điều 28: “Công ước không làm ảnh hưởng đến bất kỳ quy định pháp luật nào của nước gốc mà qui định việc nhận trẻ em thường trú tại Nước đó làm con nuôi được thực hiện tại nước đó hoặc cấm việc thu xếp đưa trẻ đến Nước nhận hoặc chuyển trẻ em đến nước đó trước khi trẻ em đó được nhận làm con nuôi.
Điều 39: “ Công ước không làm ảnh hưởng đến bất kỳ văn kiện quốc tế nào khác mà các nước ký kết Công ước này là thành viên và văn kiện đó có những qui định về các vấn đề được Công ước điều chỉnh, trừ khi những nước thành viên của các văn kiện đó tuyên bố ngược lại.
Bất kỳ nước ký kết nào cũng có thể ký kết các thoả thuận với một hoặc nhiều Nước ký kết khác nhằm tạo thuận lợi cho việc áp dụng Công ước trong quan hệ giữa những nước đó với nhau. Những thoả thuận này chỉ có thể thay đổi những qui định tại các Điều từ 14 đến 16 và từ 18 đến 21 của Công ước. Những nước đã ký kết những thoả thuận như vậy phải chuyển cho cơ quan lưu chiểu Công ước bản sao những thoả thuận đó.
Điều 40: “Không chấp nhận bảo lưu Công ước”
h. Những điều khoản cuối cùng
Qui định cơ chế gia nhập Công ước , hiệu lực của của Công ước đối với các nước tham gia cũng như việc rút khỏi Công ước của nước đã tham gia ký kết.
Điều 44 qui định:
1. Bất kỳ quốc gia nào khác đều có thể gia nhập Công ước sau khi Công ước có hiệu lực theo khoản 1 điều 46.
2. Văn kiện gia nhập phải được nộp cho cơ quan lưu chiểu.
3. Việc gia nhập chỉ có hiệu lực trong quan hệ giữa quốc gia gia nhập và những quốc gia ký kết không có ý kiến phản đối việc gia nhập của quốc gia đó trong vòng 6 tháng kể từ khi nhận được thông báo qui định tại mục b Điều 48. Các quốc gia cũng có thể đưa ra tuyên bố phản đối như vậy vào thời điểm các quốc gia đó phê chuẩn, chấp thuận hoặc phê duyệt Công ước sau khi đã có việc gia nhập. Tuyên bố phản đối phải được thông báo cho cơ quan lưu chiểu.
Điều 47 cũng qui định thêm:
1. Bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước cũng có thể rút khỏi Công ước bằng cách gửi thông báo bằng văn bản cho cơ quan lưu chiểu.
2. Việc rút khỏi Công ước sẽ có hiệu lực vào ngàyđầu tiên của tháng tiếp theo sau thời hạn 12 tháng kể từ khi cơ quan lưu chiểu nhận được thông báo đó. Nếu trong Công ước nêu rõ việc rút khỏi Công ước sẽ có hiệu lực sau một thời gian dài hơn 12 tháng thì việc rút khỏi Công ước sẽ có hiệu lực sau khi chấm dứt thời hạn đó kể từ khi cơ quan lưu chiểu nhận được thông báo.
i. Việc thực hiện Công ước Lahay 1993 tại Việt Nam
Để triển khai thực hiện Công ước Lahay, Cục Con nuôi – Bộ Tư pháp đã tiến hành
xây dựng Đề án triển khai thực hiện Công ước Lahay giai đoạn 2012 -2015 để trình lên Thủ tướng phê duyệt, trong đó xác định rõ mục tiêu tổng thể và lộ trình từng năm thực hiện để bảo đảm Công ước sẽ được thực hiện đầy đủ và trở thành một văn bản chính thức ở Việt Nam. Khi Đề án thực hiện công ước Lahay được phê duyệt sẽ tạo cơ sở pháp lý để thành lập Tổ công tác liên ngành phối hợp giải quyết những vấn đề liên ngành trong thực thi Công ước Lahay.
Như vậy chúng ta đã chuyển từ giai đoạn hợp tác song phương sang giai đoạn hợp tác đa phương về con nuôi quốc tế. Tính đến hết tháng 4/2012, Bộ Tư pháp đã nhận được đề xuất hợp tác nuôi con nuôi theo khuôn khổ Công ước Lahay của một số nước với Việt Nam (Bao gồm: Ailen, Đức, Na Uy, Thụy Điển, Chính phủ Cộng đồng nói tiếng Pháp và Chính phủ Cộng đồng ngôn ngữ Flamand của Bỉ). Bộ Tư pháp đang tiếp tục xem xét đề nghị của các nước thành viên Công ước Lahay về việc hợp tác với Việt Nam và lộ trình mở rộng hợp tác với các nước theo khuôn khổ công ước Lahay. Định hướng chung là năm 2012 tập trung củng cố quá trình chuyển đổi từ luật cũ sang luật mới ở trong nước bao gồm cả trung ương và địa phương, trong đó tập trung vào xoay chuyển tình hình ở địa phương. Bắt đầu từ cuối năm 2012 đến đầu 2013 sẽ xem xét mở rộng diện hợp tác theo công ước Lahay theo một lộ trình phù hợp với nhu cầu thực tế của Việt Nam.
Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới sau khi phê chuẩn Công ước Lahay và thay đổi nội dung nội luật thì việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài cũng dừng chân tại đó, trong khi không phải trẻ em không có nhu cầu được nhận làm con nuôi nước ngoài. Lý do vì tư duy cũ vẫn tồn tại và cơ chế mới chưa thể phá bỏ lối làm việc cũ, các trung tâm vẫn muốn giằng kéo lối làm việc cũ với những đặc quyền lớn. Thay vào đó hiện nay đã có cơ quan trung ương làm đầu mối quản lý và điều hành toàn bộ qui trình cho nhận con nuôi nước ngoài.
Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi giằng co giữa cơ chế cũ và cơ chế mới vì vậy việc thực thi hiệu quả Luật nuôi con nuôi và Công ước Lahay 1993 đang cần rất nhiều nỗ lực của cả hệ thống các cơ quan cho nhận con nuôi từ trung ương đến địa phương.
Thực hiện Luật Nuôi con nuôi và Công ước Lahay, do có sự thay đổi một cách căn bản về cơ chế tài chính liên quan đến việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài theo hướng công khai minh bạch và tách bạch giữa hỗ trợ nhân đạo và chi phí giải quyết việc nuôi con nuôi nên vai trò đặc biệt là lợi ích của các Giám đốc cơ sở nuôi dưỡng giảm đáng kể trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi cho người nước ngoài.
Những thay đổi của Luật Nuôi con nuôi và Công ước Lahay đang tác động trực diện đến các cơ sở nuôi dưỡng nơi lập và cung cấp danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế trên phạm vi toàn quốc va sau đó trở thành danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế ở nước ngoài nếu không có người trong nước nhận trẻ làm con nuôi. Danh sách mà Bộ LĐTBXH công bố năm 2010 có
20.000 trẻ có hoàn cảnh đặc biệt đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở nuôi dưỡng tập trung, trong khi đó các năm 2009, 2010 và 2011 mỗi năm Việt Nam giải quyết được hơn 1.000 trẻ em làm con