Trường Hợp Áp Dụng Và Rủi Ro Trong Phương Thức Nhờ Thu

Người bán phải lập một chỉ thị nhờ thu hộ tiền. Trong chỉ thị nhờ thu, người bán phải đề ra những điều kiện nhờ thu và được ngân hàng chấp nhận. Đây là chứng từ pháp lý cụ thể điều chỉnh quan hệ giữa người bán và ngân hàng phục vụ bên bán.

Nội dung của chỉ thị nhờ thu phải bao gồm những nội dung sau: Chi tiết về người uỷ thác nhờ thu bao gồm tên đầy đủ, địa chỉ bưu điện và nếu có thể là số telex, telephone và số fax; Chi tiết về người trả tiền bao gồm: tên đầy đủ, địa chỉ bưu điện hoặc địa chỉ mà chứng từ được xuất trình đến người trả tiền và nếu có thể là số telex, telephone và số fax, BIC (nếu có); Số tiền và loại tiền nhờ thu; Bảng kê các loại chứng từ và số lượng chứng từ xuất trình; Điều khoản giao chứng từ phải rõ ràng và dựa trên: việc thanh toán và/hoặc chấp nhận thanh toán; Các điều kiện khác; Phí nhờ thu do bên nào chịu; Tiền lãi nhờ thu (nếu có) bao gồm: lãi suất; thời hạn tính lãi; Cơ sở tính toán; Chỉ dẫn thanh toán và hình thức thông báo thanh toán; Các chỉ dẫn trong trường hợp không thanh toán, không chấp nhận và/hoặc không tuân theo các chỉ dẫn khác; Chi tiết về ngân hàng gửi chứng từ, bao gồm: tên đầy đủ, địa chỉ, số telex, số fax và số tham chiếu, ngoài ra có thể có thêm BIC; Số tiền và loại tiền nhờ thu.

2.2.4. Trường hợp áp dụng và rủi ro trong phương thức nhờ thu


2.2.4.1. Đối với nhờ thu trơn


Phương thức này không đảm bảo quyền lợi cho người bán, vì việc nhận hàng của người mua hoàn toàn tách rời khỏi khâu thanh toán, do đó người mua có thể nhận hàng và không trả tiền hoặc chậm trễ trả tiền. Đối với người mua áp dụng phương thức này cũng có điều bất lợi, vì nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ, người mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng của người bán có đúng hợp đồng hay không.

Do những đặc điểm trên mà phương thức thanh toán này chỉ được áp dụng khi người bán và người mua tin cậy lẫn nhau hoặc là có quan hệ liên doanh với nhau giữa Công ty mẹ, Công ty con hoặc chi nhánh của nhau.

2.2.4.2. Đối với nhờ thu kèm chứng từ


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

Trong phương thức này, người bán uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn có việc nhờ ngân hàng khống chế chứng từ vận tải đối với người mua. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa nhờ thu kèm chứng từ và nhờ thu trơn. Với cách khống chế này, quyền lợi người bán được đảm bảo hơn. Tuy nhiên, nhờ thu kèm chứng từ còn có một số mặt yếu sau:

Người bán mới chỉ khống chế được quyền định đoạt hàng hoá của người mua, chứ chưa khống chế được việc trả tiền của người mua. Người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hoặc có thể không trả tiền cũng được, khi tình hình thị trường bất lợi.

Rủi ro trong thanh toán quốc tế tại công ty cổ phần dịch vụ kỹ thuật - TSC - 4

Việc trả tiền còn quá chậm chạp, từ lúc giao hàng đến lúc nhận được tiền có khi kéo dài vài tháng hoặc nửa năm.

2.3. Phương thức tín dụng chứng từ (Documentary credit)


2.3.1. Nguồn pháp lý điều chỉnh phương thức tín dụng chứng từ


2.3.1.1. Các văn bản pháp lý quốc tế điều chỉnh phương thức tín dụng chứng từ


a) Các quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ của ICC (Phòng Thương mại Quốc tế), bản sửa đổi mới nhất năm 2006 là UCP 600 (Uniform customs and practice for documentary credits, revision 2006, no 600_UCP 600).

b) Quy tắc thống nhất về hoàn trả tiền giữa các ngân hàng theo thư tín dụng (Uniform rules for bank to bank reimbursement under documentary credit _ URR 525, ICC, 1995).

c) Thực tiễn thực hành thư tín dụng dự phòng quốc tế (International standby practice _ISP 590, ICC, 1998).

d) Thực tiễn ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế (International standard banking practice _ISBP 645, ICC, 2003), không sửa đổi UCP 600 mà chỉ bổ sung, giải thích và làm rõ thêm các nội dung của UCP 600.

e) Phụ trương UCP 600 dành cho việc xuất trình chứng từ điện tử (Supplement to UCP 600 for presentation of electronic documents_ eUCP 1.0, ICC, 2002).

2.3.1.2. Các luật quốc gia: luật Dân sự Việt Nam 2005; luật Thương mại Việt Nam 2005; luật các tổ chức tín dụng 2004; pháp lệnh ngoại hối 2005.

2.3.2. Khái niệm chung về phương thức tín dụng chứng từ


Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận, trong đó một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.

Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có:


Người yêu cầu mở thư tín dụng (The Applicant for the credit) là người mua, người nhập khẩu hàng hoá, hoặc là người mua uỷ thác cho người khác. Khi tiến hành giao dịch thanh toán, người nhập khẩu căn cứ vào các điều khoản trong hợp đồng lập đơn xin mở thư tín dụng rồi gửi đến một ngân hàng đã được chỉ định hoặc tự chọn để yêu cầu mở L/C cho người được hưởng. Đây thường là ngân hàng mà người yêu cầu mở L/C có tài khoản hoặc quan hệ tín dụng.

Ngân hàng mở thư tín dụng/ngân hàng phát hành (Opening Bank/ Issuing Bank) là ngân hàng đại diện cho người nhập khẩu. Trước tiên, ngân hàng phát hành đứng ra mở L/C theo yêu cầu của người nhập khẩu. Ngân hàng phát hành có trách nhiệm thanh toán tiền cho người xuất khẩu khi người xuất khẩu xuất trình được bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của L/C. Ngân hàng mở L/C thường được hai bên mua bán thoả thuận lựa chọn và quy định trong hợp đồng, nếu chưa có sự quy định trước, người nhập khẩu có quyền lựa chọn.

Người hưởng lợi thư tín dụng (The beneficiary) là người bán, người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà người bán chỉ định. Quyền lợi và nghĩa vụ của người hưởng lợi là kiểm tra L/C do người nhập khẩu mở xem có phù hợp với quy định trong hợp đồng hay không; nếu đồng ý thì tiến hành giao hàng theo đúng thoả thuận trong hợp đồng đồng thời lập bộ chứng từ gửi cho người mua thông qua ngân hàng trung gian.

Ngân hàng thông báo thư tín dụng (Advising Bank) thường là ngân hàng đại lý cho ngân hàng phát hành tại nước của người xuất khẩu. Ngân hàng thông báo có trách nhiệm thông báo L/C nhận được từ ngân hàng phát hành cho người xuất khẩu sau khi xác định được tính chân thực của L/C.

Ngoài ra còn có sự tham gia của các ngân hàng khác: Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): Khi người bán không tín nhiệm ngân hàng phát hành, họ yêu cầu L/C phải được xác nhận bởi ngân hàng khác gọi là Ngân hàng xác nhận (thường là ngân hàng lớn, có uy tín trên thị trường tín dụng và tài chính quốc tế); Ngân hàng chỉ định là ngân hàng mà với ngân hàng đó tín dụng có giá trị thanh toán hoặc bất cứ ngân hàng nào trong trường hợp tín dụng có giá trị thanh toán đối với bất cứ ngân hàng nào.

2.3.3. Thư tín dụng là một công cụ quan trọng của phương thức tín dụng chứng từ

Thư tín dụng (Letter of credit - L/C) là một chứng thư (điện hoặc ấn chỉ), trong đó ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình được một bộ chứng từ phù hợp với nội dung của L/C.

Thư tín dụng có tính chất quan trọng là nó hình thành trên cơ sở của hợp đồng mua bán nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán.

Các thư tín dụng thương mại thường thấy trong thanh toán quốc tế gồm có: Thư tín dụng không thể hủy bỏ (Irrevocable Letter of credit); Thư tín dụng không thể hủy bỏ có xác nhận (Confirmed Irrevocable L/C); Thư tín dụng không thể hủy bỏ, miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C); Thư tín dụng chuyển nhượng (Transferable L/C); Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C); Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C).

Các loại thư tín dụng khác có thể áp dụng: Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C); Thư tín dụng dự phòng (Standby L/C); Thư tín dụng thanh toán dần dần về sau (Deferred payment L/C).

Những nội dung chủ yếu của một thư tín dụng thương mại bao gồm những điều khoản sau đây: Số hiệu, địa chỉ và ngày mở L/C; Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ; Loại thư tín dụng; Số tiền của thư tín dụng; Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền và thời hạn giao hàng ghi trong thư tín dụng; Những nội dung về hàng hoá; Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hoá; Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình; Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở thư tín dụng và nó rằng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở L/C; Những điều khoản đặc biệt khác; Chữ ký của ngân hàng mở thư tín dụng, nếu L/C mở bằng thư (Nếu mở L/C bằng điện, thay vì chữ ký nói trên bằng test). Đây là những nội dung quan trọng tất yếu phải có trong bất kỳ một thư tín dụng nào. Đây đồng thời cũng là

những nội dung mà các ngân hàng cũng như hai bên mua bán thường tiến hành kiểm tra rất kỹ trước khi tiến hành thanh toán.

Nhận xét: L/C là một chứng thư vì thế các dạng khác của L/C không bằng chứng thư đều vô giá trị; L/C là một cam kết trả tiền chứ không phải là một lời hứa; L/C do một người phát hành nhưng có thể cho một hoặc nhiều người hưởng lợi; căn cứ trả tiền là các chứng từ thương mại; L/C là một cam kết trả tiền có điều kiện và có thời gian.

2.3.4. Quy trình thanh toán bằng L/C


Ngân hàng thông báo

Ngân hàng phát hành

6

5

2


6 5 3 1 7 8


Người xuất khẩu

Người nhập khẩu

4



(1) Căn cứ vào hợp đồng mua bán ngoại thương, người nhập khẩu viết giấy yêu cầu mở thư tín dụng và gửi tới ngân hàng của mình là ngân hàng phát hành mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng (phải ký quỹ và trả phí mở L/C, mức ký quỹ có thể dao động trong khoảng 0% – 100% trị giá của L/C).

(2) Căn cứ vào đơn ngân hàng phát hành sẽ phát hành một L/C và thông qua ngân hàng ở nước người xuất khẩu để thông báo về việc mở L/C và chuyển L/C bản gốc đến người xuất khẩu.

(3) Thông báo nội dung của L/C đến cho người xuất khẩu, khi nhận được bản gốc L/C thì chuyển cho người xuất khẩu.

(4) Người xuất khẩu nhận và kiểm tra L/C, nếu chấp nhận thì giao hàng cho người nhập khẩu; nếu không chấp nhận thì đề nghị nguời nhập khẩu thông qua ngân hàng phát hành tu chỉnh L/C trước khi giao hàng.

(5) Lập bộ chứng từ thanh toán theo đúng yêu cầu của L/C thông qua ngân hàng thông báo để đòi tiền ngân hàng trả tiền theo quy định trong L/C. Nếu không quy định thì theo UCP 600 thời hạn dành cho việc xuất trình không quá 21 ngày kể từ sau ngày giao hàng.

(6) Kiểm tra bộ chứng từ xem có phù hợp với L/C không, nếu phù hơp thì trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu do người xuất khẩu ký phát. Nếu không phù hợp thì từ chối thanh toán (việc kiểm tra chứng từ của ngân hàng phát hành theo UCP 600 là không quá 5 ngày).

(7) Ngân hàng phát hành trao chứng từ cho người nhập khẩu.


(8) Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp thì hoàn trả tiền cho ngân hàng phát hành, nếu không phù hợp thì từ chối thanh toán.

2.3.5. Ưu điểm của thanh toán bằng thư tín dụng


So với các phương thức thanh toán quốc tế khác, phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ có nhiều ưu điểm như:

2.3.5.1. Đối với người nhập khẩu


- Thông qua bộ chứng từ thanh toán, người nhập khẩu có thể phòng tránh được rủi ro trong quá trình nhận hàng hóa.

- Được đảm bảo về mặt tài chính vì chỉ khi bên người xuất khẩu đã gửi hàng và lập xong bộ chứng từ thì người nhập khẩu mới phải thanh toán tiền.

2.3.5.2. Đối với người xuất khẩu

- An toàn, ít rủi ro vì trong thanh toán người xuất khẩu nhận được tiền từ ngân hàng phát hành sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và lập bộ chứng từ đầy đủ.

- Có thể dùng L/C như một phương thức tài trợ xuất khẩu vì người xuất khẩu có thể sẽ nhận được tiền thanh toán trước khi hàng hóa tới cảng đến.

- Có thể nhận được sự tài trợ của ngân hàng dựa trên bộ chứng từ hoàn hảo. Với L/C không hủy ngang, ngân hàng mở cam kết với người xuất khẩu là sẽ thanh toán tiền đổi lấy chứng từ hoặc hối phiếu được lập phù hợp với các điều khoản và điều kiện của L/C.

- Một khi L/C không hủy ngang đã được mở thì sẽ không thể hủy bỏ hay sửa đổi nếu không có sự đồng ý của người xuất khẩu.

- Người nhập khẩu không thể từ chối thanh toán với bất kỳ lý do gì nếu người xuất khẩu xuất trình chứng từ phù hợp.

2.3.5.3. Đối với ngân hàng phát hành L/C


- Có quyền kiểm tra khả năng thanh toán của người nhập khẩu trước khi mở L/C vì vậy có thể giảm rủi ro về tài chính có thể xảy ra.

- Mở rộng nghiệp vụ kinh doanh, tăng thu nhập như thu được phí phát hành L/C từ 0,1% - 0,15% tổng giá trị của L/C.

- Chiếm dụng hợp pháp một khoản ngoại tệ. Đó là khoản ký quỹ của người nhập khẩu.

- Còn có thể cho người nhập khẩu vay tiền trong trường hợp người nhập khẩu không có tiền nhập hàng, qua đó thu được một khoản tiền lãi.

- Uy tín và địa vị của ngân hàng trên thị trường tài chính tiền tệ được tăng lên.

2.3.5.4. Đối với ngân hàng thông báo

Xem tất cả 127 trang.

Ngày đăng: 09/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí