Tăng cường cho vay theo hợp đồng tài trợ.
Quy chế „đồng tài trợ của các TCTD” được Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành theo quyết định số 286/2002/QĐ-NHNN ngày 3/4/2002. Mỗi ngân hàng thường có thế mạnh riêng của mình, vì vậy thực hiện đồng tài trợ sẽ giúp cho các ngân hàng bổ sung cho nhau về các thế mạnh, hạn chế nhược điểm, có cơ hội học hỏi lẫn nhau, phối hợp trong hoạt động thẩm định dự án và giám sát sử dụng vốn vay giúp giảm thiểu khả năng xảy ra RRTD và khi xảy ra tổn thất thì tổn thất được san sẻ. Khi thực hiện đồng tài trợ, các ngân hàng cần nắm rõ điểm mạnh, điểm yếu của mình và ngân hàng bạn để phân chia trách nhiệm của từng thành viên.
Liên kết đồng bộ các TCTD.
Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO cam kết lộ trình mở cửa ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng sẽ đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt với các ngân
Lập danh mục tài sản
Kết quả đầu tư
hàng nước ngoài. Thêm vào đó, khi nền kinh tế phát triên theo cơ chế mở cửa thì các tổ chức kinh tế cũng theo đó mở rộng bất cứ ngành nghề sản xuất kinh doanh nào. Vì không đủ tiềm lực tài chính các DN đó sẽ xin vay vốn ngân hàng bằng mọi cách kể cả một dự án vay vốn tại nhiều ngân hàng. Bởi vậy, đã đến lúc các TCTD nên có biện pháp cùng nhau xây dựng mối liên hệ thông tin.
2.6. Kết hợp hoạt động tín dụng và bảo hiểm tín dụng.
Trong hệ thống các tổ chức tài chính, NHTM và bảo hiểm là hai định chế quan trọng và to lớn nhất. Hoạt động của các công ty bảo hiểm có nhiều khía cạnh khác biệt so với các loại hình kinh doanh khác không chỉ việc chấp nhận rủi ro về phần mình từ các chủ thể kinh doanh khác, mà còn ở khả năng đánh giá khách quan và quản lý rủi ro. Ngân hàng trong quá trình hoạt động buộc phải chấp nhận nhiều loại rủi ro. Việc xây dựng mối quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa ngân hàng và công ty
bảo hiểm sao cho một phần rủi ro của ngân hàng được chuyển sang nhà bảo hiểm, có lợi không chỉ cho ngân hàng mà còn cho nhà bảo hiểm. Ngân hàng thì có thể tập trung thời gian và nguồn lực vào việc trực tiếp cung cấp dịch vụ ngân hàng, tạo khả năng hoạt động theo một cơ chế linh hoạt hơn trong việc xác định chiến lược và cân đối lợi ích giữa “rủi ro và thu nhập”. Công ty bảo hiểm thông qua việc gánh lấy một phần rủi ro của ngân hàng sẽ đảm bảo tính bền vững, độ tin cậy của ngân hàng. Đến lượt mình, các công ty bảo hiểm có vai trò không nhỏ trong việc mở rộng và đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng. Quá trình quản lý rủi ro ngân hàng phức tạp, nhiều cấp độ có thể được đơn giản hóa nhiều lần thông qua việc chuyển một bộ phận rủi ro mang tính kinh tế và phi kinh tế sang công ty bảo hiểm. Các chuyên gia của công ty bảo hiểm có nhiều điều kiện hơn trong chuyên môn hóa đánh giá khách quan rủi ro và xây dựng chiến lược quản trị rủi ro. Nhờ vậy, tính bến vững, độ tin cậy của ngân hàng được tăng cường và có tác động tích cực đến việc nâng cao uy tín, thương hiệu ngân hàng. Tín dụng là nghiệp vụ cơ bản hàng đầu và tạo nhiều thu nhập cho ngân hàng. Trong khi đó, chất lượng tài sản có của ngân hàng gắn chặt với nhiều nhân tố kinh doanh của người vay, đó là các yếu tố cấu thành RRTD. Việc chuyển một phần rủi ro này cho nhà bảo hiểm đảm bảo độ tin cậy của người vay cao hơn, tạo tiền đề giảm thiểu RRTD cho ngân hàng và nâng cao chất lượng tài sản có của ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng các loại hình bảo hiểm sau để nâng cao chất lượng quản trị RRTD: bảo hiểm tài sản (trong đó, có bảo hiểm tài sản đảm bảo), bảo hiểm các chu kỳ sản xuất, bảo hiểm trách nhiệm các loại (trong đó có trách nhiệm đối với người thứ 3 khi không hoàn thanh nghĩa vụ theo hợp đồng), bảo hiểm nhân thọ của chủ thể vay vốn, bảo hiểm mùa vụ của các cây công nghiệp, bảo hiểm hàng hóa khi vận chuyển...
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng Phát Triển Bidv Trong Xu Thế Hội Nhập
- Nâng Cao Chất Lượng Đánh Giá Khách Hàng Và Lượng Hóa Rrtd
- Tăng Cường Kiểm Soát, Quản Lý Hoạt Động Tín Dụng Và Rrtd.
- Rủi ro tín dụng và một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dung tại ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Loại hình bảo hiểm tín dụng có hai hình thức là:
(1) Yêu cầu khách hàng tự bảo hiểm đề phòng bất trắc. Khoản tín dụng trong trường hợp này coi như được bảo hiểm gián tiếp. Để sử dụng tốt hình thức này ngân hàng cần có chính sách ưu tiên cho vay đối với đối tượng xin vay đã mua bảo hiểm.
(2) Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp cho các sản phẩm tín dụng của mình.
Ở trên thế giới hoạt động liên kết giữa bảo hiểm và ngân hàng đã rất phổ biến, tuy nhiên, ở Việt Nam hoạt động này vẫn còn khá mới mẻ. NHTM Việt Nam cũng đã ký thỏa thuận với công ty bảo hiểm quốc tế AIA và công ty Prodential về cung cấp dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm. Do vậy BIDV có thể tiếp tục mối quan hệ này để có thể bổ sung một biện pháp hiệu quả nữa cho quản trị RRTD.
2.7. Sử dụng công cụ tài chính phái sinh
Hiện nay, bên cạnh các biện pháp truyền thống, các NHTM trên thế giới còn sử dụng phổ biến các công cụ phái sinh, chuyển giao RRTD nhằm hạn chế RRTD. Tín dụng phái sinh phát triển mạnh mẽ ở các thị trường tài chính lớn như Mỹ, Anh, Canada, Đức.... Các NHTM Việt Nam đến nay vẫn chưa thực sự áp dụng công cụ tài chính phái sinh này nhưng với xu thế hội nhập mạnh mẽ và công cuộc hiện đại hóa các ngân hàng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì các NHTM Việt Nam trong đó có BIDV sẽ sớm sử dụng các công cụ này.
Tín dụng phái sinh là hợp đồng song phương cho phép những người tham gia thị trường chuyển đổi RRTD của khoản vay và các tài sản khác từ bên mình (gọi là bên mua sự bảo vệ) sang bên khác (gọi là bên bán sự bảo vệ). Các ngân hàng có thể sử dụng tín dụng phái sinh để giảm RRTD (trường hợp là người mua sự bảo vệ) hoặc thu được lợi nhuận lớn hơn (trường hợp là người bán sự bảo vệ). Khoản thanh toán được xác định trong hợp đồng tín dụng phái sinh dựa trên sự xuất hiện của sự kiện tín dụng đối với một thực thể liên quan. Có 3 sự kiện tín dụng cơ bản là phá sản, không trả được nợ và tái cơ cấu nợ.
2.7.1. Hoán đổi tổng thu nhập (Total Return Swaps - TRS).
Sự hoán đổi này trao đổi các khoản thanh toán của hai bên bằng số chênh lệch ròng của các khoản thanh toán tương ứng. Người “bán” khoản vay - người phải trả tổng thu nhập (total return payer) chi trả dựa vào thu nhập có từ việc nắm giữ một khoản nợ có nhiều rủi ro hoặc một danh mục các khoản nợ có nhiều rủi ro. Tổng thu nhập của một khoản nợ có nhiều rủi ro bằng tổng thu nhập lãi suất và những thay đổi về giá trị thị trường của khoản nợ đó. Rủi ro của những khoản thu nhập này được đo bằng độ biến động của chúng. Bên đối tác trong hợp đồng hoàn đổi tổng thu nhập - người thụ hưởng tổng thu nhập (total return receiver), trả tiền dựa vào các khoản thu nhập của một trái phiếu không có rủi ro vỡ nợ (ví dụ, trái phiếu Chính phủ) trừ đi khoản đền bù nhận được do phải chịu rủi ro của bên phải trả tổng thu nhập. Kết quả của sự hoán đổi này là người phải trả tổng thu nhập được hưởng dòng thu nhập từ trái phiếu không có rủi ro và người thụ hưởng tổng thu nhập được hưởng dòng thu nhập tương xứng với việc nắm giữ khoản nợ đầy rủi ro.
Sơ đồ 3.4: Hoán đổi tổng thu nhập.
Tổng lợi tức của tài sản
Tỷ lệ tham chiếu+mức chênh lệch
Người thụ hưởng tổng thu nhập (ngân hàng)
Người phải trả tổng thu nhập (công ty bảo hiểm, nhà đầu tư)
Trong TRS, một bên nhận tổng thu nhập từ một tài sản liên quan được xác định trong hợp đồng, còn bên kia nhận được luồng tiền theo tỷ lệ thả nỗi hoặc cố định định kỳ. Luồng tiền này không liên quan đến giá trị tín dụng hay khả năng được nợ của tài sản tham chiếu, đặc biệt trong đó khoản thanh toán dựa trên cùng lượng giá trị danh nghĩa. Hoạt động này cho phép ngân hàng giữ lại toàn bộ tài sản của mình, nhưng vẫn duy trì mức độ RRTD mong muốn.
Giả sử một ngân hàng (người thụ hưởng) nắm giữ một khoản vay được xếp hạng tín dụng A, có lãi suất thả nỗi được trả 2% nhiều hơn so với mức lãi suất tham chiếu. Nếu lãi suất tham khảo là 8% thì người vay phải trả một mức lãi suất là 10%
trong thời kỳ đó. Một dự giáng hạng mức độ tín nhiệm đối với người vay này mà làm giá của khoản nợ đó giảm đi 5% có nghĩa là mức tổng thu nhập bằng 5%. Người thụ hưởng sẽ được trả 5% trong thời kỳ đó. Người phải trả sẽ được nhận 8% lãi suất tham chiếu trừ đi một khoản chênh lệch, ví dụ là 0,25%, tổng cộng là 7,75% cho thời kỳ này. Các khoản thanh toán thực tế bằng số tiền ròng (sau khi đã bù trừ) các khoản tiền trên, do đó, người phải trả nhận được 2,75%. Kết hợp khoản thu này với 2% có được từ việc nắm giữ các khoản nợ đầy rủi ro này, người này được hưởng một khoản lợi tức cuối cùng là 4,75%. Điều này hấp dẫn đối với người thụ hưởng là khả năng được hưởng dòng thu nhập của khoản nợ mà không cần phải đầu tư để có được khoản nợ này.
Hoán đổi tổng thu nhập làm gia tăng tính chắc chắn của dòng tiền mặt. Chiến lược quản lý ngân hàng truyền thống cũng nhằm đạt mục tiêu này. Việc dự phòng vốn cho rủi ro tín dụng mà nhà đầu tư một số tài sản có vào các chứng khoán không có rủi ro vỡ nợ cũng đạt được một giới hạn thấp hơn đối với các khoản tổn thất do vỡ nợ. Một sự khác biệt quan trọng là chiến lược dự phòng vốn trên duy trì một kho các tài sản có tính lỏng cao, trong khi chiến lược sử dụng các hợp đồng phái sinh tín dụng cung cấp vừa đúng lúc các dòng tiền mặt khi các khoản tổn thất được phát hiện.
2.7.2. Hoán đổi tín dụng (credit swaps).
So với hình thức hoán đổi tổng thu nhập, đặc điểm thanh toán bất ngờ của các hợp đồng hoán đổi tín dụng gần giống với đặc điểm thường gắn với các hợp đồng bảo hiểm. Như sơ đồ 2 cho thấy, người mua bảo hiểm đối với rủi ro tín dụng bằng cách chi trả các khoản thanh toán định kỳ theo một tỷ lệ % cố định của mệnh giá khoản tín dụng. Nếu rủi ro tín dụng dự kiến xảy ra, ví dụ như người vay vỡ nợ, người bán bảo hiểm chi trả một khoản thanh toán để bù đắp cho phần tổng thất tín dụng đã được bảo hiểm. Ngược lại, người mua bảo hiểm không phải trả khoản tiền nào cả.
Sơ đồ 3.5: Hoán đổi tín dụng.
Người mua bảo hiểm
X%/năm
Người bán bảo hiểm
Có rủi ro tín dụng
Thanh toán
Không có rủi
ro tín dụng Không thanh toán
Giả sử RRTD được xác định là vỡ nợ, một hợp đồng hoán đổi tín dụng có thể được hình thành như sau. Như trường hợp trước, giả sử khoản nợ có lãi suất thả nỗi được xếp hạng tín phiếu hạng A trả 2% nhiều hơn so với mức lãi suất tham chiếu. Người nắm giữ khoản nợ này ký kết một hợp đồng hoán đổi tín dụng để bảo hiểm đối với rủi ro tổn thất tín dụng do người vay vỡ nợ. Người nắm giữ khoản nợ này là người mua bảo hiểm, ví dụ trả 0,1% mỗi kỳ cho người bán bảo hiểm. Nếu người vay bị vỡ nợ, người bán bảo hiểm phải trả một khoản thanh toán được xác định từ trước. Ngược lại, người bán bảo hiểm không phải trả bất kỳ một khoản tiền nào. Khoản thanh toán này bù đắp khoản tổn thất phát sinh do người vay vỡ nợ.
2.7.3. Hợp đồng quyền chọn tín dụng (Credit Options).
Hợp đồng quyền chọn tín dụng là một công cụ bảo vệ ngân hàng trước những tổn thất trong giá trị tài sản tín dụng, giúp bù đắp mức chi phí vay vốn cao hơn khi chất lượng tín dụng của ngân hàng giảm sút. Ví dụ, một ngân hàng lo lắng về chất lượng tín dụng của một khoản cho vay 10 tỷ đồng mới thực hiện, ngân hàng có thể ký hợp đồng quyền tín dụng với một tổ chức kinh doanh quyền (option dealer). Hợp đồng này sẽ đảm bảo thanh toán toàn bộ khoản cho vay neeusnhw khoản cho vay này giảm giá đáng kể hoặc không thể được thanh toán. Nếu như khách hàng vay vốn trả nợ như kế hoạch, ngân hàng sẽ thu được những khoản thanh toán như dự tính và hợp đồng quyền sẽ không được sử dụng. Như vậy, ngân hàng sẽ mất toán bộ
phí trả tiền trên hợp đồng quyền. Ngân hàng cũng thực hiện các hợp đồng quyền tương tự để bảo vệ danh mục đầu tư trong trường hợp những tổ chức phát hành không thể hoàn thành trách nhiệm thanh toán hoặc trong những trường hợp giá trị thị trường của các chứng khoán giảm sút do chất lượng của tổ chức phát hành thay đổi.
Sơ đồ 3.6: Hợp đồng quyền chọn tín dụng.
Ngân hàng
Tổ chức kinh doanh hợp
đồng quyền tín dụng
Phí trả cho hợp đồng quyền chọn
Thực hiện thanh toán nếu chi phí tín dụng tăng quá mức thỏa thuận hay CLTD giảm dưới mức thỏa thuận.
Hợp đồng quyền tín dụng cũng có thể được sử dụng để bảo vệ ngân hàng trước rủi ro chi phí vốn tăng do chất lượng tín dụng của ngân hàng giảm. Ví dụ, một ngân hàng lo ngại rằng xếp hạng tín dụng của nó sẽ có thể giảm trước khi ngân hàng phát hành các trái phiếu dài hạn để huy động thêm vốn, và do vậy ngân hàng có thể bị ràng buộc phải trả một mức lãi suất huy động vốn cao hơn. Một giải pháp trong hoàn cảnh này là ngân hàng mua hợp đồng quyền bán với mức chênh lệch lãi suất cơ bản cam kết trong hợp đồng được xác định là mức phổ biến trên thị trường hiện tại áp dụng đối với mức rủi ro tín dụng hiện tại của ngân hàng. Giống như các loại hợp đồng quyền chọn khác, hợp đồng quyền chọn rủi ro tín dụng cũng mang mức chênh lệch lãi suất cơ bản. Hợp đồng quyền chọn sẽ thanh toán toàn bộ phần chênh lệch lãi suất cơ bản thực tế (so với một chứng khoán không có rủi ro) vượt trên phần chênh lệch lãi suất cơ bản đã thỏa thuận. Chẳng hạn, một ngân hàng dự tính chi phí vay vốn của nó sẽ cao hơn lãi suất trái phiếu chính phủ 5 năm là 1%. Do sự sụt giảm trong chất lượng tín dụng hay do tình trạng đình trệ của nền kinh tế, mức chênh lệch lãi suất cơ bản mà ngân hàng sẽ phải thanh toán có thể tăng tới 2% trên
lãi suất trái phiếu chính phủ. Nếu điều này xảy ra, hợp đồng quyền bán sẽ trở nên có lợi vì nó giúp ngân hàng hạ thấp mức lãi suất phải thanh toán gần với mức chênh lệch 1% so với lãi suất của chứng khoán chính phủ.
2.8. Áp dụng nghiệp vụ mua bán các khoản tín dụng vào quản trị RRTD
Mua bán các khoản cho vay là một hình thức thay đổi chủ thể người cho vay trong mối quan hệ tín dụng. Trong đó, chủ thể cho vay sẽ bán khoản vay của mình (quyền đòi) cho một chủ thể khác với một chủ thể khác. Khi đó, người mua lại khoản vay sẽ trở thành chủ nợ mới đối với người đi vay. Mua bán các khoản cho vay có các dạng như bán khoản cho vay không truy đòi, bán các khoản cho vay có truy đòi. Mua bán các khoản cho vay mang lại lợi ích cho các NHTM, đặc biệt trong quản lý rủi ro. Đó là giải pháp nhằm hạn chế những hậu quả nặng nề có thể mang lại từ rủi ro khi cho vay tập trung, tạo vốn cho hoạt động kinh doanh, trợ giúp quản lý tài chính.
Khi danh mục cho vay của ngân hàng mất cân đối, ngân hàng phải chuyển hướng đầu tư nhằm phân tán rủi ro. Việc bán các khoản nợ giúp ngân hàng thực hiện được điều này. Một thuận lợi cho BIDV trong việc thực hiện mua bán các khoản nợ là Bộ tài chính đã thành lập công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng (DATC). Công ty này có trách nhiệm mua lại các khoản nợ xấu mà các NHTM không thể tự giải quyết. BIDV hoàn toàn có đủ điều kiện để thực nghiệp vụ mua bán nợ nhằm quản trị RRTD tốt hơn.
BIDV đã ký kết hợp đồng mua bán nợ với DATC vào ngày 10/11/1006 với trị giá hơn 31 tỷ đồng. Mua bán nợ là một giải pháp giúp các ngân hàng xử lý các khoản nợ của mình, giải quyết vốn tồn đọng. Tuy nhiên, muốn mua bán nợ đạt hiệu quả cả ngân hàng và công ty mua bán nợ phải đánh giá đúng khoản nợ, khả năng trả nợ. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải xây dựng bộ phận đánh giá và quản lý các khoản nợ để phối hợp với công ty mua bán nợ định giá đúng các khoản nợ.
2.9. Các biện pháp khác