pháp luật theo cơ chế cộng tác viên. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp theo dõi thi hành pháp luật trên cơ sở xem xét, đánh giá các nội dung sau đây:
1. Tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản quy phạm pháp luật;
2. Tình hình bảo đảm các điều kiện cho thi hành pháp luật;
3. Tình hình tuân thủ pháp luật;
Nghị định số 59/2012/NĐ-CP của Chính phủ đã ban hành được hơn 5 năm, tuy nhiên hiện nay pháp luật về theo dõi thi hành pháp luật thiếu vắng những quy định cụ thể về phối hợp trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước cũng như việc phối hợp theo dõi thi hành pháp luật giữa cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và công dân. Thực tế cho thấy ở tầm vĩ mô, cho đến nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật đề cập cụ thể công tác phối hợp theo dõi thi hành pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về công tác phối hợp theo dõi thi hành pháp luật hiện nay như Thông tư số 03/2010/TT-BTP của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật hay Nghị định số 59/2012/NĐ-CP của Chính phủ về theo dõi thi hành pháp luật mới chỉ quy định ở mức khái quát nhất về công tác theo dõi thi hành pháp luật của Chính phủ và các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các cấp
Đơn cử, Quyết định số 40/2011/QĐ-UBND của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội quy định về trình tự, thủ tục cho phép hộ gia đình, cá nhân chuyển đổi mục đích sử dụng đất Quyết định số 40/2011/QĐ-UBND của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội quy định về trình tự, thủ tục cho phép hộ gia đình, cá nhân chuyển đổi mục đích sử dụng đất vườn, ao liền kề và đất nông nghiệp xen kẹt (không thuộc đất công) sang đất ở có hiệu lực đã hơn một năm. Ngày 20 tháng 06 năm 2014 Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 24/2014/QĐ-UBND quy định một số điểm mới về chuyển đổi mục đích quyền sử dụng đất vườn, ao liền kề và đất vườn, ao xen kẹt trong khu dân cư sang đất ở, Việc ban hành quy định đã tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, hộ gia đình thực hiện các thủ tục chuyển đổi mục đích quyền sử dụng đất hợp pháp cho mảnh đất của mình đã sử dụng từ trước ngày 01 tháng 07 năm 2004 được thuận lợi hơn. Thực tế hiện nay, nhiều huyện chưa có bản đồ địa chính có tọa độ, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất không có máy trắc địa để thực hiện đo đạc. Thực tế, việc chuyển đổi đất vườn, ao liền kề, đất nông nghiệp xen kẹt trong khu dân cư sang đất ở không thực hiện được do quá trình xác định giá
đất để người dân nộp tiền sử dụng đất khi chuyển đổi khó thực hiện. Đối với các trường hợp chuyển đổi đất vườn, ao liền kề sang đất ở, việc thu tiền sử dụng đất bằng 50% chênh lệch giữa giá đất ở với giá đất nông nghiệp theo khung giá của thành phố quy định là có căn cứ thực hiện. Nhưng trường hợp người dân có nhu cầu chuyển đổi đất nông nghiệp xen kẹt sang đất ở, việc quy định tính tiền sử dụng đất căn cứ vào mức sát với giá thị trường rất khó khăn bởi trong bối cảnh thị trường bất động sản không có giao dịch như hiện nay, hội đồng định giá địa phương khó xác định giá đất sát với giá thị trường. Bởi vậy, việc chuyển mục đích vườn, ao liền kề và đất vườn, ao xen kẹt trong khu dân cư sang đất ở vẫn giẫm chân tại chỗ làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân. Đến nay, vẫn chưa có một cơ chế đánh giá, phối hợp trong phạm vi toàn quốc, hoặc một địa phương nhằm khắc phục, xử lý những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn theo dõi thi hành pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách đầy đủ, nghiêm minh, thống nhất, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Thứ hai, sử dụng đồng bộ các công cụ quản lý: pháp luật, quy hoạch, tài chính và hành chính trong quản lý đất đai bảo đảm các quan hệ đất đai vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, trong đó công cụ tài chính phải được đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, là trường hợp sử dụng đất vì mục đích thương mại phải bị đánh thuế lũy tiến để bảo đảm nguồn thu cho Nhà nước và giảm bớt nghĩa vụ tài chính cho những hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất.
Thực tế, còn rất nhiều khu quy hoạch "treo" dẫn đến “treo” luôn nhiều quyền lợi của người dân nhưng, hầu như không cá nhân, đơn vị nào chịu trách nhiệm. Đây là khâu rất cần được cải cách. Quy hoạch phải tổ chức lấy ý kiến cộng đồng một cách thực chất và có thời gian thực hiện, cần có quy định xử lý trường hợp dự án quy hoạch không thực hiện quy trình hỏi ý kiến người dân trong lập quy hoạch. Trường hợp quá thời gian quy định, nhưng việc triển khai quy hoạch chưa thực hiện thì phải xem như quy hoạch đó đã được xóa và mọi quyền lợi của người dân ở đó phải bảo đảm được công bằng như những nơi khác. Nhà nước cần đổi mới công tác quy hoạch, theo đó nên giao cho một cơ quan đầu mối lập quy hoạch, cụ thể là Bộ Xây dựng. Hạn chế việc giao đất, cho thuê đất cho các chủ đầu tư không có năng lực, tránh được lãng phí trong việc sử dụng đất..
Thứ ba, tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại phục vụ công tác điều tra, đánh giá số lượng và chất lượng đất đai; thống kê, kiểm kê đất đai; xây dựng bản đồ giá đất, giám sát biến động tài nguyên đất đai lồng ghép với các yếu tố môi trường và
Có thể bạn quan tâm!
- Bất Cập, Hạn Chế Quy Định Pháp Luật Và Thực Hiện Pháp Luật Về Quyền Và Nghĩa Vụ Của Hộ Gia Đình, Cá Nhân Sử Dụng Đất Trong Nhóm Đất Nông
- Định Hướng Xây Dựng Quy Định Pháp Luật Và Thực Hiện Pháp Luật Về Quyền Và Nghĩa Vụ Của Hộ Gia Đình, Cá Nhân Sử Dụng Đất
- Giải Pháp Sửa Đổi, Bổ Sung Pháp Luật Và Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Quyền Và Nghĩa Vụ Của Hộ Gia Đình, Cá Nhân.
- Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo Tiếng Việt
- Quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam hiện nay - 21
- Quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam hiện nay - 22
Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.
biến đổi khí hậu. Nhà nước, cần có chính sách khuyến khích áp dụng mô hình nhà đô thị xanh để tiết kiệm đất, xây dựng nhiều thành phố thông minh, mô hình trang trại thông minh để sử dụng hiệu quả đất đai.
Hoàn thiện hệ thống thông tin đất đai, cơ sở dữ liệu đất đai và hệ thống hồ sơ địa chính theo hướng hiện đại, theo mô hình tập trung, thống nhất trên phạm vi cả nước, phục vụ đa mục tiêu, bảo đảm công khai, minh bạch; chuyển dần các hoạt động đăng ký, giao dịch trong lĩnh vực đất đai sang giao dịch điện tử bằng cách số hóa mỗi mảnh đất. Cần triển khai mạnh mẽ việc quản lý đất đai bằng việc số hóa các dữ liệu liên quan đất đai, tạo thuận lợi cho hộ gia đình, cá nhân làm các thủ tục liên quan đến đất, như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xin giấy phép để xây dựng công trình trên đất…, tạo điều kiện để thực hiện công khai, minh bạch và thực hiện tham vấn đầy đủ với người dân về công tác quản lý đất đai.
Thứ tư, cần có giải pháp quản lý đất đai hiệu quả từ nhiều phía, từ phía cơ quan nhà nước như cơ quan quản lý chuyên nghiệp về đất đai, cơ quan thanh tra, giám sát và tự quản lý từ chính chủ sử dụng đất. Trong mối quan hệ quản lý, cơ quan quản lý nhà nước phải tôn trọng quyền quản lý, quyền sử dụng, quyền tự định đoạt của người sử dụng đất theo nguyên tắc bình đẳng.
Thứ năm, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế để xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật một cách hiệu quả về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trong thời gian tới.
Cải cách hệ thống pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp vì yêu cầu của sự hoà nhập và phát triển, mở rộng sự hợp tác để học tập kinh nghiệm trong việc xây dựng pháp luật, việc áp dụng pháp luật trong các hoạt động tố tụng, việc xác định trình tự và thẩm quyền tố tụng, vai trò của công chúng trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp… Việc sửa đổi, điều chỉnh chính sách để hỗ trợ việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất phải bảo đảm nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, minh bạch và bảo đảm việc tổ chức và thực thi có hiệu quả quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân. Đây là yêu cầu quan trọng, góp phần bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự minh bạch của chính sách, pháp luật và sự phù hợp với các cam kết quốc tế, đồng thời cũng phù hợp với quy định tại Điều 51 Hiến pháp năm 2013: “Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Điều này đòi hỏi những sửa đổi, bổ sung pháp luật, tổ chức thực hiện về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trong tương lai phải góp phần môi trường
thuận lợi cho hộ gia đình, cá nhân có điều kiện thực hiện tốt nhất trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ sử dụng đất của mình.
Nhà nước cần đánh thuế lũy tiến đối với diện tích nhà, đất sử dụng vượt hạn mức theo quy định tránh tình trạng đầu cơ và nâng giá nhà đất lên cao. Khi thuế nhà đất lũy tiến được ban hành thì tình trạng đầu cơ sẽ giảm, còn việc xác định những trường hợp nộp thuế và tính thuế hoàn toàn khả thi, nếu hệ thống đăng ký đất đai hiệu quả. Nhà nước không những tăng thu ngân sách, mà còn hạn chế được nạn đầu cơ đẩy giá bất động sản tăng lên quá cao, đồng thời thúc đẩy việc sử dụng nhà đất có hiệu quả, không lãng phí, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình, cá nhân sở hữu được căn nhà cho mình. Tuy nhiên, việc đánh thuế cũng phải có lộ trình cho phù hợp với thực tiễn.
Thứ sáu, Nhà nước cần có giải pháp toàn diện để khơi dậy tiềm năng của thị trường quyền sử dụng đất, theo đó phải có chính sách đưa mọi mảnh đất vào sử dụng. Thị trường phải tuân theo các quy luật của cung cầu có sự quản lý của Nhà nước. Nhằm thực hiện thành công quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bảo đảm phát triển bền vững trên nguyên tắc Nhà nước cần có chính sách thúc đẩy thị trường đất nông nghiệp để tạo mô hình nông nghiệp 4.0, nông nghiệp đô thị kết hợp du lịch vừa để sử dụng đất hiệu quả, vừa tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động trẻ và các thành viên trong hộ gia đình.
Thứ bảy, giải pháp để nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật trong tổ chức và thực thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất Phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò rất quan trọng, là cầu nối để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với mọi tầng lớp người dân. Vì vậy, nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật trong tổ chức và thực thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất luôn là điều cần
thiết nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và thực thi pháp luật.
Trong tình hình hiện nay, nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là cần phải có các phương thức tác động làm thay đổi cách nghĩ, cách nhìn của nhân dân đối với pháp luật. Do đó, khi tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần giải thích, phân tích cho người dân hiểu được rằng, pháp luật không chỉ bao gồm các quy định cưỡng chế, thực thi pháp luật, biện pháp giải quyết tranh chấp mà pháp luật còn bao gồm các quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khuyến khích sự giao dịch lành mạnh giữa các thành viên trong xã hội vì sự phát triển và bảo đảm trật tự ổn định. Cần chú trọng vấn đề sau:
- Coi trọng và xây dựng nhận thức đúng về vị trí, vai trò quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Quán triệt quan điểm, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ văn hóa pháp lý cho mọi tầng lớp nhân dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chủ động bố trí và kiện toàn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Xây dựng kế hoạch phối hợp trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Xây dựng kế hoạch phối hợp giữa chuyên môn và các đoàn thể trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lồng ghép các hoạt động nhằm phổ biến kiến thức pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân.
- Đổi mới phương thức phổ biến, giáo dục pháp luật
Cần tạo tính tích cực, chủ động trong việc tìm hiểu, nhận thức bằng nhiều hình thức khác nhau, qua đó, hình thành ý thức tự giác, thói quen học tập nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, sống học tập và làm việc theo pháp luật. Đa dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng chuyên mục phổ biến pháp luật, lựa chọn nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp và hiệu quả với từng đối tượng.
- Cần có nhiều kênh tuyên truyên truyền, giáo dục pháp luật khác nhau và phát huy vai trò của người làm công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
Có thể tuyên truyền pháp luật bằng nhiều hình thức, qua phương tiện truyền thông, giảng dạy trong nhà trường, thông qua đoàn thể, hiệp hội. Cần thường xuyên có kế hoạch, văn bản để hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan, ban ngành, đoàn thể và chính quyền địa phương thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân. Phát huy vai trò người làm công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở các cơ quan, tổ chức, có quy chế làm việc rõ ràng để hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ được phân công và tăng cường các kênh Trợ giúp pháp lý cho người dân.
Thứ tám, giải pháp để nâng cao hiệu quả giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với tổ chức và thực thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất.Hiệu quả tổ chức và thực thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất còn phụ thuộc vào việc tổ chức giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với tổ chức và thực thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. Để nâng cao hiệu quả giám sát, thanh tra, kiểm
tra, xử lý vi phạm đối với tổ chức và thực thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất cần chú trọng đồng bộ các giải pháp sau:
- Tăng cường năng lực cho hệ thống tổ chức thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đất đai để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, phát hiện, xử lý vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai. Cụ thể, phải kiện toàn tăng cường năng lực cho Thanh tra ngành Tài nguyên và Môi trường phải bảo đảm tính độc lập mới có thể kiểm tra, thanh tra được.
- Đẩy mạnh thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý và sử dụng đất đối với một số loại đối tượng chủ yếu đang có nhiều vi phạm, gây bức xúc, tác động tiêu cực đến quản lý nhà nước về đất đai; bảo đảm việc quản lý, sử dụng đất đúng quy hoạch và pháp luật.
- Thường xuyên kiểm tra, phát hiện và chấn chỉnh các thiếu sót, sai phạm về chuyên môn trong việc thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về đất đai;
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra; tổ chức tốt hoạt động tiếp nhận, xử lý thông tin phản ánh về tình trạng vi phạm pháp luật đất đai.
- Nâng cao chất lượng công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại và tố cáo về đất đai, đảm bảo lợi ích của Nhà nước và công dân, góp phần ổn định an ninh, chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Thứ chín, giải pháp để nâng cao hiệu quả bảo đảm các điều kiện cho tổ chức và thực thi pháp luật và bảo hộ về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất
Chính sách và pháp luật gắn liền với việc tổ chức và thực thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất do các cơ quan nhà nước ban hành phải xuất phát từ thực tiễn theo xu hướng phát triển của thời đại và phản ánh thực tiễn, ảnh hưởng của các chính sách đó đến thực tiễn đòi hỏi các đối tượng chịu sự tác động của chính sách và pháp luật phải nắm bắt được nội dung cũng như tuân thủ nó. Pháp luật không thể được tuân thủ một cách nghiêm túc nếu như những quy phạm pháp luật không xuất phát từ những yêu cầu của xã hội. Do đó, văn bản quy phạm pháp luật ban hành cần phải phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và lấy lợi ích của người dân, của xã hội, của nhà nước làm nền tảng. Chính sách, pháp luật gắn liền với việc tổ chức và thực thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất do cơ quan nhà nước ban hành cũng cần đảm bảo sự phù hợp với đối tượng, phải điều chỉnh đúng đối tượng. Nếu chính sách, pháp luật không
điều chỉnh đúng đối tượng, sẽ không làm cho đối tượng đó tuân thủ một cách tự nguyện, gây ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách, pháp luật được ban hành. Điều này được hiểu là chính sách, pháp luật được ban hành phải đảm bảo cho chủ thể có khả năng nhận thức luật, qua đó có thể áp dụng các quy phạm pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
4.3. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Trong khi chờ đợi Luật Đất đai năm 2013 được Quốc hội sửa đổi, bổ sung cần có giải pháp trước mắt như sau:
Thứ nhất, các cơ quan chức năng, cụ thể là Bộ Tài nguyên và Môi trường khẩn trương thực hiện Đề án tái cơ cấu, tập trung đất đai, phục vụ sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, đồng thời hoàn thiện dự thảo Nghị định về tích tụ đất đai cho sản xuất nông nghiệp theo hướng khuyến khích về tích tụ đất đai dựa trên địa hình của địa phương. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần đề xuất với Chính phủ phát triển mô hình nông nghiệp đô thị để bảo đảm nhà ở và giải quyết việc làm cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đất nước.Trong thời gian trước mắt, các bộ, ngành ở Trung ương cần áp dụng mạnh hơn nữa công nghệ thông tin, áp dụng việc mã hóa các thửa đất và đưa vào cơ sở dữ liệu gắn với chíp của mã căn cước công dân để bảo hộ quyền và nghĩa vụ của chủ sử dụng đất, tránh sự lấn chiếm, vi phạm của các chủ thể khác.
Nguồn lực về đất đai chưa được phát huy đầy đủ, cần có Đề án thu hút nguồn lực đất đay từ các hộ gia đình, cá nhân để pháp triển kinh tế, bằng cách “góp đất” thay vì thu hồi đất. Áp dụng cơ chế này, Nhà nước khuyến khích các chủ đất cùng góp đất vào phát triển các khu dân cư mới hoặc chỉnh trang các khu dân cư hiện hữu để tạo quỹ đất và kinh phí cho mục đích phát triển hạ tầng, dịch vụ công cộng…Cơ chế góp đất, điều chỉnh lại đất đai đã được George Washington, Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ đưa ra vào năm 1791 trong quá trình xây dựng Thủ đô của Hoa Kỳ. Cơ chế này áp dụng nhiều nước như Nhật Bản, Đức…
Thứ hai, Tiếp tục đẩy mạnh tiến độ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình có quyền sử dụng đất và nhà ở; có hướng giải quyết triệt để đối với những trường hợp vượt thẩm quyền; tổng rà soát, kiểm tra, thống kê đầy đủ quỹ nhà ở cũ thuộc sở hữu Nhà nước, quỹ nhà tự quản của các cơ quan Trung ương bàn giao về, tỉnh thành phố quản lý để tổ chức kê khai đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định; kiểm tra các dự án đầu tư, đã có quyết định thu hồi đất, nhưng quá 3 năm không thực hiện giải phóng mặt bằng, các thửa đất vướng
mắc về quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị bị chồng lấn quy hoạch trên địa bàn để có phương án xử lý, điều chỉnh kịp thời làm căn cứ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thứ ba, pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau. Do đó, để hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất cần chú trọng đồng bộ nhiều biện pháp: Về việc thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản: Cần cho phép thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất tại các ngân hàng ở nước ngoài, nhưng khi xảy ra tranh chấp thì phải được xử lý theo pháp luật Việt Nam; Về chủ thể là cá nhân nước ngoài sử dụng đất ở Việt Nam: Cần bổ sung chủ thể "cá nhân nước ngoài" là người sử dụng đất (có thời hạn tối đa không quá 50 năm) sau khi đã mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Nhà nước, cần có giải pháp linh hoạt trong chấp thuận việc người sử dụng đất được quyền lựa chọn hình thức trả tiền thuê đất. Việc bảo đảm linh hoạt trong sự chấp thuận này là cần thiết, phù hợp phương án tài chính đầu tư của tổ chức, cá nhân có liên quan tới pháp luật đất đai. Chính sách, pháp luật về vấn đề này cần chú ý tới các đối tượng miễn, giảm. Các đối tượng này đã được mở rộng, tuy nhiên nguyên tắc thực hiện miễn, giảm là thực hiện theo từng dự án đầu tư gắn với việc cho thuê đất mới không đơn giản như chính sách cũ là thực hiện miễn, giảm theo từng dự án đầu tư. Điều này dẫn đến đối tượng miễn, giảm khó tiếp cận được khoản ưu đãi. Cụ thể, như hộ gia đình nhận giao khoán của doanh nghiệp được miễn tiền thuê đất đến năm 2020 đối với diện tích đất nông nghiệp trong hạn mức. Tuy nhiên, những dự án nông, lâm trường thường là dự án cũ từ nhiều năm về trước. Vì vậy, việc tiếp cận khoản ưu đãi tương đối khó khăn.
Thứ tư, Tiếp tục hoàn thiện các quy định về giá đất. Nhà nước cần phải quy định chi tiết, cụ thể hơn về giá đất, để giá đất sát với giá thực tế nhất và cần tập trung giải quyết một số vấn đề như: Công nhận hai loại giá đất là giá đất nhà nước và giá đất thị trường. Giá đất nhà nước dùng để tính thuế sử dụng đất, tính tiền khi Nhà nước giao đất cho vào mục đích công. Còn giá đất thị trường là để thị trường quyết định khi các bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho nhau và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Để thực hiện được giá đất thị trường, Nhà nước cần điều chỉnh bằng pháp luật đối với giá đất thị trường qua các Tổ chức định giá đất độc lập là Bộ Tài chính thành lập hoặc công nhận.