Người Thừa Kế Có Quyền Từ Chối Nhận Di Sản, Trừ Trường Hợp Việc Từ Chối Nhằm Trốn Tránh Việc Thực Hiện Nghĩa Vụ Tài Sản Của Mình Đối Với


1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.

3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế”.

Hoặc họ là người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS 2005.

“Điều 643. Người không được quyền hưởng di sản

1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

a, Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người đó;

b, Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di

sản;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

c, Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế

khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

Quyền của người lập di chúc theo pháp luật Việt Nam hiện hành - 12

d, Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy bỏ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản”.


Tóm lại, cho dù người lập di chúc đã chỉ định người hưởng di sản thừa kế là ai đi chăng nữa không thuộc những người thừa kế theo quy định tại Điều 669, người lập di chúc có thể truất quyền thừa kế của những người thừa kế theo pháp luật trong đó có thể có cha, mẹ, vợ, chồng hoặc các con của mình, người lập di chúc có thể phân định toàn bộ phần di sản của mình cho bất cứ người nào mà không cho, hoặc cho hưởng ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật đối với những người thừa kế theo Điều 669 BLDS 2005… thì những người đó vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí của người lập di chúc. Điều này đảm bảo quyền và lợi ích cho những người mà người lập di chúc có trách nhiệm và có nghĩa vụ phải thực hiện khi còn sống bằng cách giới hạn quyền tự định đoạt của người lập di chúc, góp phần củng cố, giữ vững tình yêu thương gia đình.

2.2.3. Giới hạn trong việc để lại di sản dùng vào việc thờ cúng

Trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của người lập di chúc, pháp luật nước ta cho phép người lập di chúc dành một phần di sản để dùng vào việc thờ cúng và cũng không cần quy định cụ thể “phần’’ đó là tỷ lệ bao nhiêu so với giá trị khối tài sản. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho những người có quyền tài sản liên quan đến di sản của người chết, pháp luật nước ta cũng đã hạn chế quyền dành di sản vào việc thờ cúng của người lập di chúc bằng việc quy định tại khoản 2 Điều 670 BLDS 2005 “Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”.

Như vậy, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ bị giới hạn trong trường hợp người để lại di sản thừa kế phải chịu những nghĩa vụ về tài sản như nghĩa vụ trả nợ, bồi thường thiệt hại…và toàn bộ di sản thừa kế của người đó không đủ để thanh toán nghĩa vụ. Nghĩa là nếu người để lại thừa kế có lập di chúc và


định rõ một phần di sản trong di chúc dùng vào việc thờ cúng nhưng người đó lại chịu một khoản nợ hoặc một nghĩa vụ về tài sản khác mà phần di sản thừa kế (sau khi đã trừ phần di sản thờ cúng) không đủ để thực hiện nghĩa vụ tài sản của người đó thì phải trừ vào phần di sản thờ cúng. Nếu như trừ cả phần di sản dùng vào việc thờ cúng được ghi trong di chúc mới đủ thanh toán nghĩa vụ hoặc vẫn không đủ để thanh toán nghĩa vụ của người để lại thừa kế thì người đó sẽ không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Quyền của người lập di chúc trong việc dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ không được pháp luật thừa nhận.

Theo quy định trên dù người lập di chúc đã thể hiện ý chí dành một phần di sản của mình vào việc thờ cúng nhưng ý chí đó không được pháp luật đảm bảo thực hiện nếu những phần tài sản còn lại không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản. Và vì vậy, phần di sản dùng để thờ cúng phải dùng để thanh toán các nghĩa vụ còn lại của người lập di chúc.

Mặt khác, nếu việc để lại phần di sản dùng vào việc thờ cúng của người lập di chúc ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của những người thừa kế theo Điều 669 BLDS thì quyền định đoạt đó bị giới hạn để bảo đảm những người thừa kế nói trên được hưởng phần di sản ít nhất bằng hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật.

Theo quy định tại Điều 669 BLDS 2005 thì những người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc bao gồm: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng và con đã thành niên mà không có khả năng lao động. Trong trường hợp, người lập di chúc phân chia tài sản của mình có dành một phần di sản để dùng vào việc thờ cúng mà xuất hiện người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc mà họ không từ chối nhận di sản và cũng không thuộc trường hợp bị tước quyền hưởng di sản thì họ vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật được trích từ phần di sản dùng vào việc thờ cúng.


Vậy, việc tính phần thừa kế của những người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc trên toàn bộ phần di sản thừa kế (bao gồm cả phần di sản dùng vào việc thờ cúng) hay phần di sản dùng vào việc thờ cúng được tách ra. Vấn đề này không có một điều luật nào quy định trực tiếp nhưng xem xét bản chất pháp lý của quy định về những người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc, có thể nhận thấy việc không phụ thuộc vào di chúc đồng nghĩa với việc không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người để lại thừa kế nên trong di chúc dù người để lại di sản thừa kế định đoạt bất cứ vấn đề gì về tài sản của mình - kể cả việc để lại một phần di sản để thờ cúng, nên những người thuộc đối tượng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc không được hưởng di sản theo di chúc, hoặc hưởng ít hơn 2/3 của một kỷ phần chia theo luật thì việc tính phần thừa kế của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc phải được tính trên tổng di sản thừa kế của người để lại thừa kế bao gồm cả phần tài sản mà người để lại thừa kế định rõ trong di chúc dùng vào việc thờ cúng (di sản thờ cúng).

Như vậy, mặc dù pháp luật quy định người lập di chúc có quyền để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng nhưng quyền này sẽ bị giới hạn trong trường hợp toàn bộ di sản của người để lại thừa kế không đủ thanh toán nghĩa vụ về tài sản của người đó, giới hạn bởi quyền lợi của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.

2.2.4. Giới hạn trong việc để lại di sản di tặng

Giống như quyền để lại di sản dùng vào việc thờ cúng, mặc dù dành cho người lập di chúc quyền để lại di sản để di tặng nhưng để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các chủ nợ của người lập di chúc, pháp luật nước ta đã quy định: “Trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này” (Khoản 2 Điều 671 BLDS 2005).


Như vậy, trong trường hợp người lập di chúc phải chịu những nghĩa vụ tài sản, mà toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì ngay cả khi người lập di chúc đã định đoạt tài sản của mình để lại một phần di sản để di tặng cho những người thừa kế, thì phần di tặng đó cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ của người lập di chúc. Ở đây, pháp luật đã giới hạn quyền của người lập di chúc mặc dù, pháp luật tôn trọng và quy định cho cá nhân người lập di chúc có quyền dành một phần tài sản của mình để di tặng cho bất kỳ ai nhưng việc di tặng đó sẽ không được thừa nhận và do đó sẽ không thể thực hiện nếu như toàn bộ di sản của người lập di chúc tính cả phần di tặng vẫn không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc.

Trong trường hợp, đã thanh toán xong nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc mà phần di sản vẫn còn đề phân chia. Nếu xuất hiện người thừa kế theo Điều 669 BLDS 2005 thì theo thứ tự những người được hưởng di sản thừa kế trong đó có người được di tặng thì người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc được phân chia trước tiên trong số di sản thừa kế. Theo Điều 669 BLDS 2005 thì cha, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà không có khả năng lao động: Là những người vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của người thừa kế theo luật trong trường hợp tổng số di sản mà họ được hưởng từ người lập di chúc ít hơn 2/3 một suất thừa kế theo luật hoặc họ không được hưởng di sản từ người lập di chúc (trừ trường hợp họ là những người từ chối nhận di sản hoặc là người không có quyền hưởng di sản).

Nếu người lập di chúc định đoạt một phần di sản để di tặng mà những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc chưa hưởng đủ kỷ phần bắt buộc như quy định của pháp luật thì phải trích từ di tặng. Di tặng là phần còn lại sau khi trừ phần di sản dành cho những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.


Do vậy, ngay cả trong trường hợp người lập di chúc có dành một phần tài sản của mình để lại để di tặng thì phần di tặng đó sẽ bị trừ một phần hoặc toàn bộ nếu như di sản của người lập di chúc (không tính phần di tặng) không đủ để đảm bảo kỷ phần bắt buộc đối với những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

Như vậy, Quyền của người lập di chúc trong trường hợp người lập di chúc có để lại di sản dành cho di tặng sẽ bị giới hạn nếu trong trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc và trong trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

2.2.5. Giới hạn trong việc phân chia di sản thừa kế

Khác với quan hệ dân sự khác, quan hệ thừa kế chỉ phát sinh khi có cá nhân chết. “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết” (Khoản 1 Điều 633 BLDS). Việc chia thừa kế được thực hiện khi xác định được khối di sản của người chết hiện vẫn còn để chia và có người hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Tuy nhiên, khi xác định được các yếu tố trong quan hệ pháp luật thừa kế là có thể có quyền hưởng, di sản còn để chia thừa kế và người thừa kế không từ chối quyền hưởng nhưng việc chia di sản chưa được thực hiện vì các lí do theo quy định tại Điều 686 BLDS 2005. Điều 686 BLDS 2005 quy định về hạn chế phân chia di sản: “Trong trường hợp theo ý chí của người lập di chúc hoặc theo thỏa thuận của tất cả những người thừa kế, di sản chỉ được phân chia sau một thời hạn nhất định thì chỉ khi đã hết thời hạn đó di sản mới được phân chia”.

Về nguyên tắc, trong trường hợp người để lại di sản không lập di chúc hoặc có lập di chúc nhưng không xác định thời điểm phân chia di sản thì người thừa kế có quyền phân chia di sản ngay sau khi người để lại di sản chết. Bởi vì bắt đầu vào thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế đã là đồng chủ sở hữu đối với di sản của người đã mất. Tuy nhiên, người thừa kế cũng có


quyền hạn chế phân chia di sản nếu họ thỏa thuận được với nhau về thời hạn phân chia di sản thừa kế.

Trường hợp người để lại di sản có lập di chúc thì người đó có quyền ấn định thời điểm phân chia di sản thừa kế. Vì những lý do khác nhau mà người lập di chúc đã nói rõ là di sản chỉ được chia sau một thời gian nhất định, hoặc khi có một sự kiện xảy ra thì việc chia di sản phải tạm dừng cho đến hết thời hạn đó hoặc cho đến khi sự kiện được xác định trong di chúc đã xảy ra. Thời hạn mà trong đó không được tiến hành phân chia di sản là khoảng thời gian bao nhiêu hoàn toàn do ý chí của người lập di chúc quyết định. Nếu di chúc xác định rõ thời điểm phân chia di sản thừa kế thì những người thừa kế chỉ được phân chia khi đã hết thời hạn đó. Những người thừa kế có nghĩa vụ tôn trọng quyền hạn chế phân chia di sản của người để lại di sản và có nghĩa vụ phải thực hiện theo đúng ý nguyện của người để lại di sản đã được thể hiện thông qua di chúc.

Như vậy, người lập di chúc không chỉ có quyền chỉ định người thừa kế, phân định di sản cho từng người thừa kế mà họ còn có quyền ấn định thời điểm phân chia di sản thừa kế. Tuy nhiên, quyền tự định đoạt này của người lập di chúc có thể bị giới hạn trong trường hợp: “Trong trường hợp yêu cầu

chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống

của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu

cầu Toà án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng

chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định, nhưng không quá ba năm,

kể từ thời điểm mở thừa kế; nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn

sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu

cầu Toà án cho chia di sản thừa kế”(đoạn 2 Điều 686 BLDS 2005).

Để bảo vệ đời sống của một bên vợ, chồng còn sống hoặc gia đình họ, trong trường hợp nếu di sản thừa kế được chia ngay sẽ gây ảnh hưởng nghiêm


trọng đến cuộc sống của người đó, BLDS 2005 quy định người vợ hoặc người chồng và gia đình có quyền yêu cầu Tòa án chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định để người vợ hoặc người chồng và gia đình họ ổn định về mặt tâm lý, sức khỏe, ổn định về kinh tế…VD: Trường hợp người vợ hay người chồng còn sống đang nuôi con nhỏ, không có chỗ ở khác nhưng bố mẹ chồng vẫn yêu cầu phân chia di sản. Việc phân chia di sản trong trường hợp này sẽ gây khó khăn cho cuộc sống của người vợ và những đứa con của hai vợ chồng thì theo yêu cầu của vợ hoặc chồng còn sống Tòa án sẽ xác định phần di sản mà mỗi người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định không quá ba năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hạn này để cho người còn sống và gia đình họ khắc phục được khó khăn.

Sự hạn chế phân chia di sản bị chấm dứt trong trường hợp hết thời hạn hạn chế phân chia di sản mà tòa án đã xác định hoặc người còn sống là vợ hoặc chồng của người để lại di sản đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế có quyền yêu cầu tòa án phân chia di sản thừa kế.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/01/2024