KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 của Luận văn đã đi sâu phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về quyền của người lập di chúc. Qua chương 2 tác giả đã giải quyết được các vấn đề sau:
Thứ nhất: Luận văn đã phân tích, chỉ rõ phạm vi quyền và giới hạn quyền của người lập di chúc theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Trong quá trình phân tích có sự so sánh, đối chiếu với những quy định tương ứng trong pháp luật Cộng hòa Pháp, Nhật Bản, đồng thời cũng có sự so sánh với những quy định tương ứng của pháp luật Việt Nam các giai đoạn trước.
Thứ hai: Qua quá trình phân tích, Luận văn cũng chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một nội dung theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, để từ đó tìm ra phương hướng giải quyết, đáp ứng những đòi hỏi của xã hội trong thừa kế theo di chúc nói chung và quyền của người lập di chúc nói riêng.
Chương 3:
THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN CỦA NGƯỜI LẬP DI CHÚC VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI LẬP DI CHÚC
Hiện nay, Điều 648 BLDS 2005 pháp luật quy định người lập di chúc có những quyền sau:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
Có thể bạn quan tâm!
- Quyền Sửa Đổi, Bổ Sung, Thay Thế, Hủy Bỏ Di Chúc
- Giới Hạn Trong Việc Giao Nghĩa Vụ Cho Người Thừa Kế
- Người Thừa Kế Có Quyền Từ Chối Nhận Di Sản, Trừ Trường Hợp Việc Từ Chối Nhằm Trốn Tránh Việc Thực Hiện Nghĩa Vụ Tài Sản Của Mình Đối Với
- Phương Hướng Hoàn Thiện Những Quy Định Của Pháp Luật Về Quyền Của Người Lập Di Chúc
- Quyền của người lập di chúc theo pháp luật Việt Nam hiện hành - 15
- Quyền của người lập di chúc theo pháp luật Việt Nam hiện hành - 16
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản. Điều 662. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc Trên thực tế không phải bất cứ người lập di chúc nào cũng thực hiện
đúng các quyền được ghi trên, hoặc sử dụng một phần hoặc sử dụng quá cảphần quyền được pháp luật quy định như pháp luật quy định người lập di chúcchỉ có thể dành một phần tài sản của mình để di tặng, thờ cúng nhưng cónhững người đã định đoạt toàn bộ khối di sản của mình để dùng vào việc thờcúng, di tặng. Hay có những di chúc định đoạt cả phần tài sản của người kháctrong đó phần lớn là định đoạt cả phần tài sản của vợ hoặc chồng… dẫn đếndi chúc có thể vô hiệu hoặc chỉ có hiệu lực một phần.
Bên cạnh đó, các quy định về quyền của người lập di chúc mang tính chất liệt kê mà không quy định rõ ràng, cụ thể, hướng dẫn về vấn đề này. Do đó, trong quá trình áp dụng nhiều người còn khá mơ hồ và chưa hiểu đúng với bản chất quyền của người lập di chúc. Với quan điểm cũng như nhiều cách hiểu khác nhau xung quanh vấn đề này nên các tranh chấp có liên quan đến quyền tự định đoạt tài sản của người lập di chúc xảy ra khá thường xuyên và có tính chất phức tạp. Vì thế, khi giải quyết tranh chấp về quyền của người lập
di chúc không tránh khỏi những vướng mắc, sai lầm dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự không được bảo đảm.
Dưới đây là một số tình huống xẩy ra trên thực tế liên quan đến quyền của người lập di chúc:
3.1. Thực tiễn thực hiện quyền của người lập di chúc
3.1.1. Về truất quyền hưởng di sản thừa kế
Tại Bản án số 122/DSPT ngày 22/6/2000 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Ông Kiệt và bà Biết có 2 người con gái là bà Thuyết và bà Nguyệt.
Ngày 16/9/1997, ông Kiệt lập tờ ủy quyền với nội dung “Nay, trong lúc minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối đe dọa hoặc cưỡng ép, tôi tự ý làm tờ ủy quyền này để ủy quyền cho vợ tôi là Biết, sinh năm 1918 thay mặt tôi được toàn quyền quyết định trong việc tham gia tố tụng trước các cơ quan tư pháp hành chính trong vụ kiện đòi quyền sở hữu, sử dụng, hưởng hoa lợi đối với nhà và diện tích đất vườn cây ăn trái lâu năm diện tích 12.000 m2 tọa lạc tại ấp Bình Phước, xã Bình Nhâm, huyện Thuận An do con gái chúng tôi là
Nguyệt chiếm giữ, bà Biết cũng được toàn quyền quyết định trong các giao dịch dân sự đó với những tài sản thuộc quyền định đoạt của tôi”.
Ngày 20/9/1997 bà Biết lập tờ truất quyền hưởng di sản và di tặng với nội dung: “Tôi được chồng tôi giao quyền định đoạt tài sản theo tờ ủy quyền ngày 16/9/1997 tại huyện Thuận An. Nay, trong lúc còn minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa hay cưỡng ép tôi tự ý làm tờ này để truất quyền hưởng thừa kế của con gái tôi là Nguyệt cùng chồng và con nuôi của chúng nó đối với tài sản riêng và chung của vợ chồng chúng tôi như nhà, vườn cây lâu năm ở ấp Bình Phước, xã Bình Nhâm, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương. Tôi di tặng tài sản riêng và chung của vợ chồng tôi cho ba đứa cháu ngoại là Hùng, Diễm và Hoàng”.
Trong ví dụ đưa trên, người để lại di sản truất quyền hưởng di sản của bà “Nguyệt cùng chồng và con nuôi” của bà Nguyệt. Bà Nguyệt và con nuôi của bà Nguyệt thuộc diện thừa kế theo pháp luật của ông Kiệt, bà Biết (hàng thừa kế thứ nhất, thế vị nếu bà Nguyệt chết trước ông Biết, ông Kiệt) nên theo pháp luật, ông Kiệt và bà Biết hoàn toàn có thể truất quyền hưởng di sản của hai người này. Tuy nhiên, chồng bà Nguyệt không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của ông Kiệt, bà Biết nên theo pháp luật, ông Kiệt và bà Biết không thể truất quyền hưởng di sản đối với chồng bà Nguyệt. Nói cách khác, tờ truất quyền không có ý nghĩa với chồng bà Nguyệt. Pháp luật chỉ cho phép truất quyền hưởng di sản của “người thừa kế”, chỉ có thể truất quyền hưởng di sản của một người có quyền hưởng di sản. Người thừa kế có thể là người thừa kế theo pháp luật, người thừa kế theo di chúc và trong khuôn khổ truất quyền hưởng di sản, người thừa kế chỉ có thể là “người thừa kế theo pháp luật”.
Đối với tài sản thuộc sở hữu của ông Kiệt, ông Kiệt đã ủy quyền cho bà Biết “quyền định đoạt” và bà Biết đã định đoạt bằng di chúc (truất quyền và di tặng). Tuy nhiên, trong tình huống này, Tòa án đã xác định ủy quyền của ông Kiệt là không có giá trị pháp lý. Giả sử tờ ủy quyền này có giá trị pháp lý thì việc truất quyền của bà Biết đối với tài sản của ông Kiệt có giá trị pháp lý không? Như đã nói ở phần trên, người truất quyền phải là người lập di chúc trong khi đó lập di chúc là hành vi phải do chính cá nhân thực hiện (không thể thực hiện theo ủy quyền). Bởi vì “việc lập di chúc cũng như việc kết hôn không thể thực hiện bằng lối ủy quyền. Không ai có thể ủy quyền cho người khác để thay mình lập chúc thư mà pháp luật cũng không có quyền chỉ định một thụ ủy luật định để lập chúc thư thay thế một người khác” [12, tr.61]. Do đó, nếu tờ ủy quyền trên hợp pháp thì bà Biết cũng không thể thực hiện việc truất quyền thay cho ông Kiệt, việc truất quyền hưởng di sản phải do chính người có di sản thực hiện (không thể ủy quyền cho người khác để truất quyền
hưởng di sản). Nói cách khác, đối với tài sản thuộc sở hữu của ông Kiệt, tờ truất quyền trên không có giá trị pháp lý.
Người bị truất quyền hưởng di sản thừa kế có phải là trường hợp “người không được quyền hưởng di sản” quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 hay không. Người bị truất quyền hưởng di sản thừa kế có phải là “người không được chỉ định trong di chúc” hay không? Hiện nay, do chưa có quy định cụ thể về vấn đề truất quyền hưởng di sản thừa kế nên trong quá trình nghiên cứu pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy không chỉ người dân mà ngay cả Luật sư cũng như Thẩm phán khi giải quyết tranh chấp thừa kế còn đồng nhất các khái niệm người bị truất quyền hưởng di sản thừa kế với người không được quyền hưởng di sản thừa kế quy định tại Điều 643 BLDS 2005 và người không được chỉ định trong di chúc. Điều này dẫn đến những hệ lụy không nhỏ trong các vụ việc tranh chấp di sản. Trước hết, cần khẳng định rằng người bị truất quyền hưởng di sản với người không được quyền hưởng di sản thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 cũng như trường hợp người bị truất quyền hưởng di sản với người không được chỉ định trong di chúc là những người hoàn toàn khác nhau, do đó hậu quả pháp lý ở mỗi trường hợp cũng khác nhau.
Chứng minh cho lập luận trên, tác giả xin đưa ra một ví dụ làm dẫn chứng cho thấy sự đồng nhất giữa người bị truất quyền hưởng di sản thừa kế và người không được quyền hưởng di sản thừa kế theo khoản 1 Điều 643 BLDS 2005.
Ví dụ: “Quyết định số 75/GĐT-DS của Tòa án dân sự Tòa án nhân dân Tối cao ngày 24/4/2002”
Nhận thấy
Cụ Thí chết ngày 17-1-1997. Cụ Thí không có chồng con. Tài sản của cụ Thí gồm một căn nhà diện tích 12m2 trên diện tích đất đo thực tế là 970m2
(diện tích ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cụ Thí là 864m2). Sau khi cụ Thí chết, ngày 22/5/1998, cụ Con (chị gái của cụ Thí là người thừa kế duy nhất ở hàng thừa kế thứ 2) có văn bản từ chối nhận di sản thừa kế và để lại di sản đó bằng văn bản có nội dung tự nguyện cho ông Đường toàn bộ tài sản cụ Thí để lại, có xác nhận của chính quyền địa phương. Do cụ Con chưa làm thủ tục nhận thừa kế nên ngày 16/6/2000 đã tiến hành kê khai nhận thừa kế của cụ Thí để làm thủ tục chuyển nhượng cho ông Đường. Thủ tục nhận và chuyển thừa kế chưa xong thì ngày 6/8/2000 cụ Con chết.
Các con của cụ Con từ chối nhận di sản thừa kế.
Ông Mới (cũng là cháu gọi cụ Thí và cụ Con là cô) khởi kiện chia thừa kế. Trong đó các thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ 3 của cụ Thí, những người cũng có yêu cầu được chia thừa kế là ông Thân, bà Xòe, bà Toàn, ông Hai, bà Tương, bà Kèn, bà Tiêm.
Ông Đường trình bày: Diện tích đất mà cụ Thí đứng tên chính là của ông được thừa kế nhưng giao lại cho cụ Thí quản lý trong khi ông còn ở nơi khác. Vì có nguồn gốc đất như vậy nên cụ Con là người thừa kế duy nhất của cụ Thí đã làm thủ tục chuyển giao lại cho ông toàn bộ nhà đất. Nguồn gốc nhà đất và ý nguyện của cụ Thí, cụ Con như đã nêu được họ tộc mà đại diện là ông Sắc (trưởng họ) thừa nhận. Riêng anh em ông Mới có ý định tranh chấp nên ông Mới và ông Thân (là em ruột ông Mới) đã giả mạo di chúc của cụ Thí có nội dung chỉ định người thừa kế nhà đất là anh Chưởng (con trai ông Mới). Do việc giả di chúc bị chính quyền địa phương phát hiện nên ông Mới đã khởi kiện đòi chia thừa kế. Do thủ tục chuyển giao thừa kế (giữa cụ Con và ông Đường) chưa xong nên ông cũng đồng ý chia thừa kế nhưng yêu cầu được hưởng toàn bộ hiện vật và yêu cầu truất quyền thừa kế của ông Mới và ông Thân.
Tại bản án sơ thẩm số 09 ngày 23/12/2000 Tòa án nhân dân huyện Hương Trà đã xử:
- Chia thừa kế của ông Đường 1 nhà mái tôn có diện tích 12m2 trên sở vườn có diện tích 864m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên cụ Thí.
- Truất quyền thừa kế di sản của Cụ Thí đối với ông Thân, ông Mới… Theo nội dung bản án trên, ông Thân và ông Mới là những người có
hành vi giả mạo di chúc. Di chúc giả mạo chỉ định anh Chưởng (con trai ông Mới, là cháu ruột gọi ông Thân bằng chú) là người thừa kế nhà đất, như vậy bản di chúc giả mạo có nội dung nhằm tước đoạt quyền thừa kế theo luật của người thừa kế khác. Căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 thì đây là trường hợp giả mạo di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Tuy ông Mới và ông Thân không phải là người trực tiếp hưởng di sản thừa kế theo di chúc giả mạo nhưng anh Chưởng là con ruột của ông Mới cũng là cháu ruột của ông Thân, vì thế ông Mới và ông Thân vẫn được xem là những người không được hưởng di sản thừa kế theo Điều 643 BLDS.
Tuy nhiên, tại bản sán sơ thẩm số 09 ngày 23/12/2000 Tòa án nhân dân huyện Hương Trà đã xử “Truất quyền hưởng di sản thừa kế của cụ Thí đối với ông Thân, ông Mới”. Thấy rằng, tại bản án này Thẩm phán đã có sự đồng nhất giữa người bị truất quyền hưởng di sản thừa kế và người không được hưởng di sản thừa kế theo Điều 643 BLDS 2005. Như đã phân tích ở chương 2 của luận văn, khẳng định rằng hai đối tượng này là hoàn toàn khác nhau. Truất quyền hưởng di sản là theo ý chí của người để lại thừa kế. Người để lại di sản muốn gạt một hay nhiều người thừa kế theo pháp luật ra ngoài diện được hưởng di sản, không cho những người này hưởng di sản của mình còn “người không được quyền hưởng di sản” do pháp luật quy định. Ở đây, pháp luật trừng phạt một người thừa kế đã phạm lỗi, do có hành vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội. Vì thế, bản án này xác định truất quyền hưởng di sản thừa kế của cụ Thí đối với ông Mới, ông Thân là không chính xác.
Quy định của pháp luật hiện hành còn thiếu đồng bộ: Hiện nay, pháp luật thừa kế nước ta chỉ mới quy định truất quyền hưởng di sản thừa kế là quyền của người lập di chúc chứ chưa có quy định cụ thể thế nào là truất quyền hưởng di sản; hình thức truất quyền phải thực hiện theo trình tự, thủ tục như thế nào; hệ quả pháp lý của việc truất quyền ra sao?...Xét về mặt lý luận, việc pháp luật chưa có những quy định cụ thể về vấn đề truất quyền hưởng di sản thừa kế dẫn đến nhiều tranh cãi, nhiều quan điểm khác nhau, từ đó gây lúng túng, khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật.
3.1.2. Về người lập di chúc đã định đoạt cả tài sản của người khác
Pháp luật quy định người để lại di sản có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều trường hợp người lập di chúc không chỉ định đoạt tài sản của mình mà còn định đoạt cả khối tài sản chung theo phần giữa họ với người khác trong đó phần lớn là định đoạt cả phần tài sản của vợ hoặc chồng.
Ngoài các tài sản riêng, tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, cá nhân còn có phần tài sản trong sở hữu chung theo phần với người khác. Họ chỉ được định đoạt phần quyền của mình trong khối tài sản chung mà không được định đoạt toàn bộ tài sản. Vì thế, nếu họ định đoạt toàn bộ khối tài sản đó nghĩa là đã định đoạt cả tài sản của người khác nên đương nhiên sẽ xảy ra tranh chấp giữa các đồng chủ sở hữu còn lại với người thừa kế của người đã chết. Ngoài ra, nếu tài sản mà người lập di chúc dùng để thiết lập quyền sở hữu chung theo phần với người khác là lấy từ tài sản chung của vợ chồng nhưng họ lại định đoạt toàn bộ phần tài sản đó cho người thừa kế theo di chúc thì người đối ngẫu còn lại sẽ khởi kiện để yêu cầu sở hữu một nửa phần tài sản đó.
Do người lập di chúc đã định đoạt các tài sản mà mình đang thuê, mượn của người khác.