Những Người Hưởng Thừa Kế Có Trách Nhiệm Thực Hiện Nghĩa Vụ Tài Sản Trong Phạm Vi Di Sản Do Người Chết Để Lại, Trừ Trường Hợp Có Thỏa Thuận


pháp luật quy định theo khoản 2 Điều 637 BLDS 2005 và Điều 669 BLDS 2005.

Pháp luật không quy định loại tài sản nào được dùng vào việc thờ cúng mà Điều 670 BLDS 2005 quy định người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng. Như vậy, tài sản theo quy định tại Điều 163 BLDS 2005 đều là đối tượng dùng vào việc thờ cúng. Về ngữ nghĩa của hai nhóm từ được dùng trong điều luật và nhóm từ thường được dùng trong cuộc sống cần phải được hiểu đúng. Di sản dùng vào việc thờ cúng và di sản dùng để thờ cúng được hiểu rất khác nhau.

Di sản dùng vào việc thờ cúng được hiểu là tài sản được dùng vào mục đích thờ cúng. Tài sản này không nên hiểu theo nghĩa cơ học của chính nó mà phải hiểu bản chất tài sản, có chứa đựng bản chất giá trị tài sản dùng vào việc thờ cúng. Như vậy, di sản dùng vào việc thờ cúng trước hết là tài sản, tài sản này xét về giá trị phục vụ cho mục đích thờ cúng. Loại tài sản dùng vào việc thờ cúng không đồng nhất về cơ cấu hóa, lý, sinh nhưng đồng nhất về mặt tài sản được dùng với mục đích thờ cúng.

Di sản dùng để thờ cúng: Nếu hiểu theo nghĩa vật chất của tài sản thì không phải vật nào cũng được dùng để thờ cúng. Vật (tài sản) được dùng để thờ cúng là vật được sử dụng trực tiếp để thờ cúng. Mâm cỗ, hoa, quả, rượu, nước, hương (nhang), nến, câu đối, lục bình, chân dung (ảnh) của những người đã chết, bàn thờ… Còn những tài sản tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể khác không thể đặt lên bàn thờ để thờ cúng như xe hơi, xe mô tô, quyền sử dụng đất, quyền tác giả các sản phẩm thuộc quyền sở hữu trí tuệ, quyền đòi bồi thường thiệt hại, quyền đòi nợ, quyền hưởng khoản tiền bảo hiểm…

Như vậy, di sản dùng vào việc thờ cúng và di sản dùng để thờ cúng rất khác nhau. Di sản dùng vào việc thờ cúng là tài sản, do vậy xe hơi, xe môtô, con trâu, máy cày, quyền sử dụng đất, quyền tài sản là thành phần của di sản


dùng vào việc thờ cúng nhưng chúng không phải là di sản được dùng trực tiếp để thờ cúng mà phải quy đổi giá trị để mua sắm lễ vật dùng để thờ cúng theo tôn giáo, theo phong tục.

2.1.4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế

Cũng như mọi người trong xã hội, bên cạnh những quyền về tài sản, người lập di chúc còn có những nghĩa vụ về tài sản. Nghĩa vụ được xét đến trong mục này là những nghĩa vụ về tài sản.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

Theo sự chỉ định trong di chúc, người thừa kế phải thực hiện một công việc vì lợi ích vật chất của người khác mà đáng lẽ khi còn sống, người để lại di sản phải thực hiện ví dụ như:

- Trả lại những vật dụng mà người lập di chúc khi còn sống đã mượn của ai đó, của cơ quan nào đó;

Quyền của người lập di chúc theo pháp luật Việt Nam hiện hành - 9

- Trả tiền công lao động, thuế và các khoản nợ đối với nhà nước, các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác;

- Xây dựng một công trình gì đó, bệnh viện, trường học .. vì lợi ích công cộng..

Nếu người để lại di sản không có di chúc thì những người thừa kế theo pháp luật của họ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản. Trường hợp người lập di chúc chỉ định đoạt một phần di sản, nhưng không giao nghĩa vụ cho những người thừa kế, thì những người thừa kế vẫn có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Nếu người để lại di sản có di chúc mà di chúc định đoạt toàn bộ di sản, nhưng lại không giao nghĩa vụ cho những người thừa kế, thì những người thừa kế theo di chúc vẫn phải thanh toán nghĩa vụ tương ứng với kỷ phần được hưởng và trong phạm vi di sản. Người lập di chúc có thể giao nghĩa vụ cho một người mà không cho họ hưởng di sản. Trường hợp này không bắt buộc người được giao nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó.


Trong di chúc, người lập di chúc có quyền phân định cho người thừa kế này nhiều di sản hơn người thừa kế kia, nhưng lại giao cho người thừa kế kia nghĩa vụ hơn (nhưng vẫn trong phạm vi di sản) người thừa kế này.. người lập di chúc toàn quyền quyết định trong việc giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi phần mà người lập di chúc cho người thừa kế được hưởng mà không phải hỏi ý kiến của người thừa kế.

Cũng tương tự như quyền phân định di sản, việc giao nghĩa vụ cũng có thể là giao cho tất cả những người thừa kế, cụ thể cho từng người thừa kế hoặc theo tỷ lệ.

Việc phân định nghĩa vụ được hiểu dưới ba góc độ:

Thứ nhất: Người để lại di sản để lại một nghĩa vụ về tài sản nhưng trong di chúc không nói rõ người thừa kế nào sẽ phải thực hiện nghĩa vụ đó, theo quy định của pháp luật thì ai được hưởng di sản đó sẽ phải thực hiện nghĩa vụ, tuy vậy họ chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản. Do đó, nếu di chúc xác định một người thừa kế thì người thừa kế đó phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trong phạm vi di sản.

Nếu có nhiều người thừa kế theo di chúc thì tất cả những người đó phải thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, trước khi chia di sản phải dùng di sản đó thực hiện các nghĩa vụ mà người chết để lại.

Thứ hai: Người để lại di sản thừa kế xác định rõ tỉ lệ nghĩa vụ mà người thừa kế phải thực hiện thì mỗi người thừa kế phải thực hiện phần nghĩa vụ đó. Phần nghĩa vụ vượt quá số di sản mà người này được hưởng sẽ chia đều cho những người thừa kế khác thực hiện tương ứng với phần di sản mà họ được nhận.

Thứ ba: Nếu người để lại di sản thừa kế đã giao nghĩa vụ cụ thể cho từng người thừa kế thì riêng người được giao nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó, mặc dù vậy, nếu phần nghĩa vụ đó vượt quá số di sản mà họ được


hưởng thì những người thừa kế khác phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại tương ứng với số di sản mà họ được hưởng.

Quy định về quyền của người lập di chúc, BLDS 2005 về cơ bản vẫn giữ nội dung gần giống như BLDS 1995 nhưng tại khoản 4 Điều 648 BLDS 2005 đã bỏ cụm từ “trong phạm vi di sản”.

Theo Điều 637 BLDS 2005 quy định về: Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.

1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

2. Trong trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế.

3. Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

4. Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

Việc bỏ cụm từ này là hợp lý, bởi lẽ tại khoản 1 điều 637 BLDS 2005 cũng quy định về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại thì “những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Do đó, nếu người lập di chúc giao nghĩa vụ cho người hưởng thừa kế theo di chúc lớn hơn số di sản mà họ được hưởng thì người đó cũng chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản mà họ được nhận, nên việc bỏ đi cụm từ “trong phạm vi di sản” là hợp lý.


2.1.5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản

2.1.5.1. Chỉ định người giữ di chúc

Pháp luật quy định công dân có quyền lập di chúc, đồng thời pháp luật cũng cho phép người lập di chúc có quyền chỉ định người giữ di chúc. Người giữ di chúc có thể là một cá nhân, một công dân cụ thể, nhưng cũng có thể là công chứng nhà nước.

Theo Điều 665 BLDS 2005 quy định về gửi giữ di chúc thì người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan công chứng lưu giữ hoặc người khác giữ bản di chúc:

Nếu di chúc được gửi giữ tại công chứng nhà nước thì việc bảo quản, giữ gìn, công bố di chúc phải theo đúng quy định của pháp luật dân sự và pháp luật về công chứng. Khi nhận giữ di chúc, công chứng viên phải lập hai bản có nội dung như nhau, một bản giao cho người lập di chúc và một bản lưu tại Phòng công chứng nhà nước. Trong trường hợp bản di chúc được lưu giữ tại công chứng nhà nước, thì công chứng viên là người công bố di chúc. Việc công bố di chúc phải có biên bản. Sau thời điểm mở thừa kế, công chứng viên phải gửi bản sao di chúc tới tất cả những người có liên quan đến nội dung di chúc. Bản sao di chúc này phải có chứng nhận của công chứng viên.

Đối với cá nhân giữ bản di chúc có các nghĩa vụ:

+ Giữ bí mật nội dung di chúc;

+ Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc;

+ Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Đồng thời, việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của hai người làm chứng [27, Điều 665].


Nếu người giữ di chúc đồng thời được người lập di chúc chỉ định là người công bố di chúc thì khi người lập di chúc chết, người đó phải công bố di chúc trước những người thừa kế theo thủ tục như trường hợp cơ quan công chứng là người công bố di chúc.

2.1.5.2. Chỉ định người quản lý di sản

Quản lý di sản là hành vi của một hoặc nhiều người với mục đích nhằm giữ gìn giá trị sử dụng của di sản, bảo vệ sự tồn tại của di sản, tránh việc di sản bị mất, hư hỏng. Trên nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản, chỉ định người quản lý di sản là một loại quyền của người lập di chúc được pháp luật ghi nhận. Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Người lập di chúc có quyền chỉ định bất cứ người nào quản lý di sản mà không phụ thuộc vào việc người quản lý di sản có phải là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc hay không. Việc chỉ định người quản lý di sản hoàn toàn do ý chí của người lập di chúc quyết định. Trường hợp trong di chúc không chỉ định người quản lý di sản thì người quản lý di sản sẽ được xác định như sau:

- Người quản lý di sản là người được những người thừa kế cùng thỏa thuận cử ra để quản lý di sản trong thời gian di sản chưa được chia;

- Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế không cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản;

- Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý [ 27, Điều 638].

Theo quy định của pháp luật người quản lý di sản có các quyền:


- Đối với người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra có quyền đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế và được hưởng thù lao theo thỏa thuận với người thừa kế.

Đồng thời có nghĩa vụ:

+ Lập danh mục di sản; thu hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;

+ Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo yêu cầu của người thừa kế;

Nếu người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản theo quy định tại khoản 2 Điều 639 BLDS 2005 có các quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ như:

+ Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác;

+ Thông báo về di sản cho những người thừa kế;

+ Bồi thường thiệt hại, nếu vi phạm nghĩa vụ của mình mà gây thiệt hại;

+ Giao lại di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc theo yêu cầu của người thừa kế [27, Điều 639].

Đồng thời với những nghĩa vụ trên, người quản lý di sản có quyền được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế và được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế.


2.1.5.3 Chỉ định người phân chia di sản

Ngoài việc chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản người lập di chúc còn có quyền chỉ định người phân chia di sản. Người phân chia di sản là người nào đó bất kỳ, không bó hẹp trong phạm vi những người được hưởng thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Điều 682 BLDS 2005 quy định về người phân chia di sản:

1. Người phân chia di sản có thể đồng thời là người quản lý di sản được chỉ định trong di chúc hoặc được những người thừa kế thỏa thuận cử ra.

2. Người phân chia di sản phải chia di sản theo đúng di chúc hoặc đúng thỏa thuận của những người thừa kế theo pháp luật.

3. Người phân chia di sản được hưởng thù lao, nếu người để lại di sản cho phép trong di chúc hoặc những người thừa kế có thỏa thuận.

Thông thường, khi xác định ai quản lý di sản thì người lập di chúc cũng chỉ định luôn người đó phân chia tài sản. Tuy nhiên, cũng có thể người lập di chúc chỉ định hai người khác nhau để mỗi người thực hiện một trong hai công việc nói trên. Người phân chia di sản cũng có thể do những người thừa kế cử ra, trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc không chỉ định người phân chia di sản. Dù là ai thì người phân chia di sản đều là người đứng ra phân chia di sản khi người để lại di chúc chết.

Người phân chia di sản có nghĩa vụ phải phân chia di sản theo đúng ý chí của người lập di chúc. Nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế, thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trong trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật, thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác, thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường

Xem tất cả 134 trang.

Ngày đăng: 21/01/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí