Khái Quát Những Quy Định Chung Của Pháp Luật Việt Nam Về Đấu Thầu

- Cầm nang hướng dẫn về hệ thống quản lý thực hiện dự án.

1.6.4. Quy định của WTO

WTO quy định các vấn đề về mua sắm hàng hóa cụ thể trong "Hiệp định mua sắm chính phủ". Đây là bản hiệp định được đăng ký theo quy định tại Điều 102 của Hiến chương Liên hợp quốc, hoàn thành tại Marrakesh ngày 15/04/1994, bản duy nhất bằng tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1


Luật đấu thầu cũng như luật pháp nói chung, có nguồn gốc lịch sử hình thành. Nó gắn liền với quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Tuy nhiên luật đấu thầu có đặt trưng riêng liên quan tới đặc điểm và mục đích của hoạt động đấu thầu. Trước hết, luật đấu thầu ra đời do đòi hỏi từ công tác mua sắm công khai và minh bạch sử dụng nguồn vốn lớn, chủ yếu từ ngân sách nhà nước. Trong đó chỉ có một người mua và rất nhiều người bán. Người mua (bên mời thầu) chủ yếu là cơ quan nhà nước, các tổ chức tài chính quốc tế ... luôn mong muốn mua được hàng hóa chất lượng cao với giá thấp nhất. Người bán là các nhà thầu với mong muốn giành được lợi nhuận tối đa và uy tín cao trong việc cung cấp hàng hóa. Để thống nhất được lợi ích của các bên tham gia đấu thầu gồm: bên mua, bên bán, chính phủ, nhà tài trợ và các bên liên quan khác, cần phải có một cơ sở pháp lý để tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong nước và quốc tế phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường. Vấn đề này đã được phân tích trong chương 1 của luận văn để thấy rõ vai trò, sự cần thiết phải có các hướng dẫn, quy chế và luật đấu thầu quốc tế.

Để làm rõ hơn về đấu thầu quốc tế tác giả đã nêu ra các khái niệm về hình thức và phương thức đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa theo quan điểm của WB, ADB, SIDA, Việt Nam và Luật mẫu của UNCITRIAL. Từ đó tác giả rút ra các đặc điểm riêng của các chế định về đấu thầu mua sắm hàng hoá quốc tế liên quan tới chủ thể, đối tượng giao dịch, điều kiện mua bán và các

điều kiện pháp lý. Đây cũng là căn cứ để phân biệt với các hình thức đấu thầu khác không phải mua sắm hàng hóa qua đấu thầu cạnh tranh quốc tế, liên quan đến đối tượng mua sắm như: dịch vụ, tư vấn và xây lắp.

Cuối cùng, tác giả nêu lên các nguyên tắc cơ bản và căn cứ pháp lý cho hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa quốc tế của một số nhà tài trợ như WB, ADB, SIDA... Các quy định cụ thể, trên cơ sở so sách với hướng dẫn của các nhà tài trợ quốc tế sẽ được trình bày ở chương 2.

Chương 2‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

NỘI DUNG CƠ BẢN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẤU THẦU MUA SẮM HÀNG HOÁ QUỐC TẾ HIỆN NAY


Quy chế đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng hóa - 6

2.1. KHÁI QUÁT NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐẤU THẦU

2.1.1 Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam quy định về đấu thầu quốc tế

2.1.1.1. Hệ thống văn bản pháp luật trước khi có Luật đấu thầu 2005

Để xóa bỏ những hạn chế về việc mua sắm khép kín, chủ yếu là chỉ định trong mua sắm hàng hóa, lần đầu tiên Chính phủ ban hành Quyết định 91/TTg ngày 13/11/1992 về hướng dẫn đấu thầu mua sắm máy móc, thiết bị nhập khẩu và kèm theo là quy định về nhập khẩu máy móc thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Ngày 3/7/1993, Chính phủ ban hành Thông tư số 04/TM-ĐT hướng dẫn thi hành quyết định này. Thông tư hướng dẫn những việc liên quan tới vấn đề đấu thầu mua sắm hàng hóa, bao gồm: hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chào hàng cạnh tranh và mua sắm trực tiếp. Tuy nhiên, các quy định này mới chỉ áp dụng trong lĩnh vực nhập khẩu bằng vốn ngân sách mà chưa bao quát các lĩnh mua sắm khác.

Đến năm 1994, quy định về mua sắm đấu thầu mới bao quát hầu hết các lĩnh vực bằng Quyết định 183/TTg ngày 16/04/1994. Qua thực tế áp dụng quyết định này đã phát sinh một số bất cập, đòi hỏi phải có văn bản pháp lý hoàn chỉnh hơn, có khả năng điều chỉnh các hoạt động đấu thầu trên mọi lĩnh vực, phù hợp với luật pháp quốc tế. Đây là tiền đề cơ bản để có sự ra đời của Quy chế đấu thầu ban hành kèm Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996. Quy chế này đã thống nhất các quy định các bộ, ngành về đấu thầu, đồng thời tạo ra sự công khai, minh bạch, tăng tính cạnh tranh và đạt hiệu quả kinh tế, quản lý cao. Nói chung, Quy chế đấu thầu đã tạo ra sự quy chuẩn và tương đối phù

hợp với các quy định quốc tế. Quy chế này được hướng dẫn bằng Thông tư liên tịch số 02/TTLT-BKH-BXD ngày 25/02/1997 và được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 93/CP ngày 23/08/1997.

Sau hơn 3 năm thực hiện Quy chế đấu thầu ban hành kèm Nghị định 43/CP được sửa đổi bổ sung theo Nghị định 93/CP, đã tạo dựng được quy trình đấu thầu, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng cường môi trường cạnh tranh lành mạnh. Nhưng đó cũng là thời gian để các Quy chế đấu thầu cũ không còn phù hợp với hoàn cảnh mới nữa, gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong đấu thầu. Để hoàn thiện pháp luật về đấu thầu trong điều kiện kinh tế xã hội mới, Chính phủ đã ban hành Quy chế đấu thầu kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999. Quy chế đấu thầu mới này tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện theo các văn bản sau:

- Nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 05/05/2000 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ;

- Nghị định số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/06/2003 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 và Nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 của Chính phủ;

- Thông tư số 04/2000/TT-BKH ngày 26/05/2000 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu;

- Thông tư số 01/2004/TT-BKH ngày 02/02/2004 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/06/2003 của Chính phủ;

- Thông tư số 17/2001/TT-BTC ngày 21/03/2001 của Bộ Tài chính Hướng dẫn chế độ quản lý và sử dụng lệ phí thẩm định kết quả đấu thầu;

- Thông tư số 50/2001/TT-BNN-XDCB ngày 03/05/2001 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu đối với các dự án đầu tư thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;

- Công văn số 8895 BKH/VPXT ngày 31/12/2001 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về Đấu thầu mua sắm hàng hoá;

- Công văn số 952/CP-CN ngày 16/08/2002 của Chính phủ về việc hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết 05/2002/NQ-CP ngày 24/04/2002 của Chính phủ đối với nội dung đấu thầu và sửa đổi quy chế đấu thầu;

- Công văn số 3220 BKH/VPXT ngày 23/05/2002 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết 05/2002/NQ-CP ngày 24/04/2002 của Chính phủ đối với nội dung liên quan tới công tác đấu thầu.

2.1.1.2. Hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn, thi hành Luật đấu thầu 2005

Trong hơn sáu năm thực hiện Quy chế đấu thầu ban hành kèm Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 và các văn bản hướng dẫn, bổ sung kèm theo, mặc dù đã nâng cao được hiệu quả kinh tế, hiệu quả quản lý và tương đối phù hợp vơi nền kinh tế thị trường, song vẫn còn nhiều vướng mắc và tiêu cực phát sinh trong công tác đấu thầu. Mặt khác, với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra rất nhanh và toàn diện trong khu vực và cả thế giới, đặc biệt là khi Việt Nam trở thành thanh viên chính thức của WTO, thì càng đòi hỏi cần phải có bộ luật về đấu thầu phù hợp với tình hình mới, phù hợp với luật pháp quốc tế và mang tính pháp chế cao. Đây không chỉ là yêu cầu của Việt Nam mà còn là yêu cầu mang tính điều kiện của các nhà tài trợ và các tổ chức tài chính, thương mại quốc tế.

Trước tình hình cấp thiết đó, kỳ họp thứ 8 ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã thông qua luật Đấu thầu số 61/2005/QH11. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/04/2006.

Cho đến nay, các cơ quan chức năng đã và đang nỗ lực sớm ban hành văn bản hướng dẫn để Luật đấu thầu 2005 thực sự đi vào đời sống xã hội. Dự thảo nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu cũng đang được Chính phủ xem xét. Do vậy, để đảm bảo sự thống nhất trong quá trình thực hiện Luật Đấu thầu trong thời gian chưa có nghị định hướng dẫn thi hành Luật của Chính phủ, căn

cứ ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ (tại văn bản 2025/VPCP-CN, ngày 17/04/2006), Bộ Kế hoạch và §ầu tư ban hành công văn số 2820 /BKH-QLĐT 21/04/2006 hướng dẫn thực hiện tạm thời công tác đấu thầu như sau: Kể từ ngày 01/04/2006, việc triển khai thực hiện đấu thầu phải căn cứ theo Luật Đấu thầu. Trong thời gian chưa có nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu có thể tham khảo các nội dung liên quan trong Quy chế đấu thầu (ban hành kèm theo các Nghị định 88/1999/NĐ-CP, 14/2000/NĐ-CP và 66/2003/NĐ-CP) và các thông tư hướng dẫn thực hiện nhưng đảm bảo không trái với quy định của Luật Đấu thầu.

Quy định này sẽ hết hiệu lực khi nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu được Chính phủ ban hành và có hiệu lực thi hành trong thời gian tới.

Tóm lại, văn bản pháp luật đấu thầu ở Việt Nam thay đổi liên tục, nhanh chóng. Một mặt nó phù hợp với những thay đổi trong tình hình, xu hướng phát triển kinh tế xã hội mới ở Việt Nam và thế giới, nhưng mặt khác nó dẫn đến những bất ổn trong áp dụng, trong tâm lý người thực hiện, kể cả các nhà tài trợ quốc tế. Việc thông qua Luật đấu thầu 2005 đã tạo ra cơ sở pháp lý ổn định để thực hiện và quản lý đấu thầu hiệu qủa hơn. Mặt khác, đó cũng là hướng phù hợp với quy định của các nhà tài trợ và tổ chức tài chính quốc tế. Tuy nhiên, cần phải sớm hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn để Pháp luật đấu thầu phát huy hiệu qủa phục vụ cho hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư quốc tế và sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam.

2.1.1.3. Nội dung cơ bản của Luật đấu thầu 2005

Luật Đấu thầu bao gồm 6 chương với 77 điều, cụ thể như sau:

Chương 1. Những quy định chung

Chương này gồm 17 Điều, quy định các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu như: phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, tư cách hợp lệ của nhà thầu, điều kiện tham gia dự thầu, các hành vi bị cấm trong đấu thầu, chống khép kín trong đấu thầu, ưu đãi trong đấu thầu,... Theo đó, phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu chỉ tập trung vào 3 nhóm dự án sử dụng vốn nhà nước là: (i) Các dự án

cho mục tiêu đầu tư phát triển sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên; (ii) Các dự án mua sắm thường xuyên của cơ quan quản lý nhà nước các cấp; và (iii) Các dự án mua sắm để cải tạo, sửa chữa lớn các thiết bị, dây chuyền sản xuất đã đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, Luật đấu thầu quy định các đối tượng không thuộc phạm vi điều chỉnh được áp dụng Luật Đấu thầu.

Để tạo sự thống nhất và căn cứ pháp lý trong quá trình thực hiện, tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 quy định, các hoạt động đấu thầu phải tuân thủ Luật Đấu thầu và các quy định pháp luật có liên quan, trường hợp có đặc thù về đấu thầu quy định ở luật khác thì áp dụng theo quy định của Luật đó.

Khái niệm gói thầu được mở rộng trong trường hợp các dự án có những nội dung mua sắm giống nhau thì được phép hình thành một gói thầu chung để đấu thầu nhằm giảm chi phí đấu thầu, đẩy nhanh tiến độ thực hiện (Quy chế đấu thầu hiện hành không quy định nội dung này).

Để tăng cường công khai, minh bạch trong đấu thầu, Điều 5 quy định các thông tin liên quan trong quá trình đấu thầu phải được đăng tải công khai và miễn phí trên hệ thống thông tin chung về đấu thầu do Nhà nước quản lý để thống nhất việc đăng tải, giảm chi phí đấu thầu, tạo thuận lợi trong việc tìm kiếm và tiếp cận thông tin về đấu thầu. Cụ thể quy định việc đăng tải công khai, tập trung các thông tin về đấu thầu giúp cơ quan quản lý kiểm soát được các thông tin cần đăng tải, ngăn chặn được các thông tin sai lệch, tránh được tình trạng thông tin bị hạn chế để đấu thầu hình thức,... Bằng cách này sẽ giúp tiết kiệm được hàng chục tỷ đồng cho ngân sách hàng năm do việc đăng tải miễn phí các thông tin (mỗi năm có khoảng 4.000 - 5.000 gói thầu đấu thầu rộng rãi, chi phí cho việc thông báo mời thầu trên các báo cho mỗi gói thầu khoảng 4 - 5 triệu đồng. Như vậy, thông qua thông báo mời thầu miễn phí trên tờ thông tin về đấu thầu của nhà nước sẽ tiết kiệm mỗi năm khoảng 15 - 20 tỷ đồng). Tuy nhiên để đảm bảo khả thi, Luật đấu thầu quy định Chính phủ sẽ đưa ra lộ trình áp dụng phù hợp với Điều kiện cụ thể của nước ta (chẳng

hạn, trước mắt chỉ bắt buộc đăng tải đối với các gói thầu lớn thuộc các dự án quan trọng của các bộ, ngành và địa phương).

Điều 7 và Điều 8 đưa ra quy định về tư cách của các nhà thầu (là tổ chức và cá nhân) có quyền tham dự thầu, tức là tư cách hợp lệ của nhà thầu. Theo đó, quy định nhà thầu muốn tham gia đấu thầu trước hết phải đảm bảo tư cách hợp lệ. Điều này nhằm khắc phục tình trạng một số tổ chức hiện nay chưa đủ tư cách để tham gia đấu thầu vẫn tham dự thầu, làm giảm hiệu quả của công tác đấu thầu và có thể gây ra rủi ro trong quá trình thực hiện.

Điều 9 quy định về các yêu cầu đối với bên mời thầu và tổ chuyên gia đấu thầu. Theo đó, trường hợp chủ đầu tư đủ năng lực thì tự mình làm bên mời thầu, nếu không đủ năng lực thì được phép tổ chức đấu thầu để lựa chọn tổ chức chuyên môn thay mình làm bên mời thầu nhằm tăng cường tính chuyên nghiệp trong đấu thầu và trách nhiệm của chủ đầu tư. Đối với tổ chuyên gia đấu thầu thì phải đảm bảo có các chuyên gia đủ điều kiện như: phải có chứng chỉ tham gia khóa học về đấu thầu, tối thiểu có 3 năm công tác trong lĩnh vực liên quan đến nội dung kinh tế, kỹ thuật của gói thầu,...

Tăng cường tính cạnh tranh, hạn chế và từng bước xoá bỏ tình trạng khép kín trong đấu thầu là một nội dung mới trong Luật đấu thầu (Điều 1l). Các quy định như trong luật đấu thầu nhằm đảm bảo tính độc lập về tổ chức, về tài chính của các cơ quan tham gia đấu thầu như: Nhà tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi không được tham gia đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn lập thiết kế kỹ thuật của dự án; nhà thầu tham gia đấu thầu các gói thầu thuộc dự án phải độc lập về tổ chức, không cùng phụ thuộc vào một cơ quan quản lý và độc lập về tài chính với chủ đầu tư của dự án... Trong Luật đấu thầu cũng quy định lộ trình áp dụng các quy định trong Điều 11 này là sau 3 năm kể từ ngày Luật có hiệu lực để đảm bảo không gây xáo trộn và ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các nhà thầu, đặc biệt là các nhà thầu tư vấn.

Xem tất cả 176 trang.

Ngày đăng: 06/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí