mặc dù đã được thủ tướng cho phép không qua sơ tuyển, cũng mất tròn một năm kể từ khi chủ đầu tư trình hồ sơ mời thầu đến khi kết quả đấu thầu được chấp nhận. Từ thực trạng này, nên chăng cơ quan nhà nước chỉ quyết định một số nội dung của quá trình đấu thầu đối với các dự án sử dụng ngân sách nhà nước, cụ thể là thẩm định hoặc phê duyệt hồ sơ mời thầu, tiêu chuẩn chi tiết đánh giá hồ sơ dự thầu, kết quả xếp hạng nhà thầu và nội dung hợp đồng. Việc lập kế hoạch đấu thầu và trình duyệt qua nhiều cấp như hiện nay là không cần thiết vì tại thời điểm lập kế hoạch đấu thầu, các mốc thời gian đều chỉ là dự kiến với độ chính xác chưa cao nên từ các mốc tiến độ chính, các mốc thành phần sẽ còn thay đổi tuỳ tình hình cụ thể dẫn đến việc trình duyệt lại... Muốn rút ngắn thời gian đấu thầu, quy định về sơ tuyển nhà thầu cũng cần phải sửa đổi linh hoạt hơn.
Nên xóa bỏ hình thức lựa chọn nhà thầu bằng phương thức đấu thầu hạn chế trong đấu thầu xây lắp quốc tế. Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu có đủ năng lực tham dự. Danh sách nhà thầu tham gia phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận. Hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau: chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu; các nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế; do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế. Khi xem xét các điều kiện áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế về mặt lý luận ta thấy: điều kiện thứ nhất là không phù hợp vị đã ít nhà thầu đáp ứng thì chúng ta lại càng phải đấu thầu rộng rãi để thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng huy động hết các nhà thầu có khả năng tham gia, trong khi đó đấu thầu rộng rãi không quy định mức tối thiểu, như vậy gặp khó khăn trong đấu thầu nếu không đảm bảo mức tối thiểu này. Qua đó có thể khẳng định điều kiện này không cần có. Đối với điều kiện thứ hai, nếu đưa điều kiện này để áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế thì khó thực hiện. Ví dụ, các dự án sử dụng nguồn
90
vốn tài trợ, vốn vay ODA của các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài yêu cầu đấu thầu chỉ các nhà thầu quốc tế, đặc biệt là chỉ các nhà thầu của chính nước tài trợ, cho vay thì các nhà thầu mà tham gia tại nước ta đạt mức tối thiểu là không khả thi. Như vậy điều kiện này không cần đưa ra. Điều kiện thứ ba quy định khá chung chung. “Có lợi thế” có thể hiểu tổng hợp là kinh tế xã hội...; có thể hiểu cụ thể là thời gian, lao động, môi trường... như vậy chỉ cần có thể hiểu theo bất cứ lợi thế nào là có thể dùng hình thức đấu thầu hạn chế. Đấu thầu hạn chế theo điều kiện này là thủ tiêu cạnh tranh, kém tính công bằng, vi phạm mục tiêu của nhà nước...vì vậy chúng ta nên xoá bỏ hình thức lựa chọn nhà thầu bằng phương thức đấu thầu hạn chế chỉ với đối tượng đấu thầu xây lắp quốc tế.
Trong thực tế thì hình thức đấu thầu hạn chế đang được áp dụng nhiều, chiếm đa số ở các ngành và địa phương. Trong quá trình tổ chức đấu thầu áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế, việc lựa chọn các nhà thầu không thể khẳng định là không có sự sắp đặt từ trước, quy định điều kiện chủ có lợi cho một nhà thầu nào đó. Do vậy, hiệu quả đạt được không cao, đồng thời đây là kẽ hở dễ tạo ra các hiện tượng tiêu cực. So sánh các hình thức lựa chọn nhà thầu thì mức tiết kiệm cao nhất là đấu thầu rộng rãi, rồi đến chào hàng cạnh tranh, tiếp đến là đấu thầu hạn chế. Các ngành các địa phương vẫn lạm dụng việc sử dụng hình thức đấu thầu hạn chế (đối với các gói thầu thuộc dự án nhóm B,C) là nguyên nhân dẫn đến giảm tính cạnh tranh trong đấu thầu, tạo điều kiện co các hành động tiêu cực như thông thầu, đấu thầu giả vờ. Qua phân tích trên đây, chúng ta có thể thấy hình thức đấu thầu hạn chế đã bộc lộ một số vấn đề không phù hợp cả về mặt lý luận và thực tế. Cho nên trong đấu thầu quốc tế, chúng ta không nên sử dụng hình thức lựa chọn nhà thầu bằng phương thức đấu thầu hạn chế.
Việc quản lý các hoạt động của nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam cần được quy định trong một văn bản dưới dạng Nghị định của Chính phủ hoặc
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Có như vậy thì chúng ta mới có đủ hiệu lực pháp lý điều chỉnh hoạt động xây dựng công trình của các nhà thầu nước ngoài. Các văn bản ban hành tuy đều căn cứ vào các Nghị định của Chính phủ về hướng dẫn chi tiết thi hành Luật thương mại, để hướng dẫn một số mặt trong quản lý xây dựng và quản lý nhà thầu nước ngoài vào nhận thầu công trình tại Việt Nam, các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Còn các nhà thầu nước ngoài vào nhận một khối lượng lớn các công trình có vốn trong nước, bao gồm cả các công trình có nguồn vốn vay và vốn trong nước lại không thuộc diện đối tượng phải chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật. Trong trường hợp này, Bộ Xây dựng đã căn cứ vào chức năng của mình để quy định việc quản lý các hoạt động của nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam. Văn bản đã ban hành phần nào còn hạn chế về hiệu lực pháp lý, chưa có thể quy định một số vấn đề liên quan đến chức năng quản lý của các ngành khác như viêc đăng ký văn phòng điều hành, đăng ký mở tài khoản, đăng ký thuế, thuê lao động, phương tiện thiết bị, xuất nhập khẩu, việc tiếp xúc với các cơ quan, các đối tác tại Việt Nam... chính vì vây sau khi được cấp giấy phép thầu, nhiều nhà thầu còn lúng túng trong việc triển khai các bước tiếp theo hoặc không biết để thực hiện các nghĩa vụ mà họ phải thực hiện theo quy đinh của nhà nước Việt Nam. Do vậy việc quản lý các hoạt động của nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam cần được quy định trong một văn bản dưới dạng nghị định của chính phủ hoặc quyết định của thủ tướng chính phủ nhằm đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ trong quản lý nhà nước, với mục tiêu đảm bảo chủ quyền của nước chủ nhà, hướng dẫn tạo điều kiện cho các pháp nhân nước ngoài hoạt động xây lắp công trình, đồng thời bảo vệ được lợi ích cho nhà thầu trong nước đảm bảo việc làm cho người lao động và tiếp thu những kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới cũng như những kinh nghiệm trong quản lý.
Bên cạnh việc đặt ra các điều kiện tối thiểu mà các nhà thầu nước ngoài phải đạt được, như vấn đề về tài chính, kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ
công nghệ, việc phải liên doanh liên kết với nhà thầu Việt Nam và các điều kiện khác, thì cũng cần phải có chính sách khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà thầu nước ngoài có uy tín trên thế giới (thường xuyên trúng thầu các công trình có yêu cầu kỹ thuật cao, công nghệ mới) nếu các hãng thầu này có ý định hoặt động lâu dài và có giấy phép thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Nhà nước nên xác định giá trần, giá sàn để chống tình trạng bỏ giá thầu thấp trong đấu thầu. Trong thời gian qua, ở Việt Nam rất hạn chế về biện pháp đấu thầu toàn bộ, nhưng lại phổ biến hình thức đấu thầu chia lẻ theo giai đoạn, hay theo hạng mục công trình. Trong đó đấu thầu thi công xây lắp được áp dụng rộng rãi hơn. Tuy nhiên với cách đang làm trong đấu thầu thi công xây lắp từ nội dung đến hình thức mang tính đấu giá hơn là đấu thầu. Bởi vì chủ đầu tư tổ chức đấu thầu xây lắp khi đã có sẵn về vị trí xây dựng, đã có thiết kế kỹ thuật và đặc biệt là đã có tổng dự toán hay dự toán được duyệt, giá gói thầu cũng đã được duyệt là tài liệu bí mật khi đưa ra đấu thầu. Công việc của nhà thầu chỉ còn là xác định giá bỏ thầu thấp hơn giá gói thầu được duyệt là có cơ hội được xem xét trúng thầu. Nhà thầu bỏ giá bằng 34,3% so với giá gói thầu được duyệt của gói thầu 2A Hầm Hải Vân đã trúng thầu... Bỏ giá thầu thấp để trúng thầu đang bị lên án là sự phá giá, làm giảm chất lượng công trình. Nhiều ý kiến cho rằng cần xác định giá trần, giá sàn để xét thầu. Nhiều nhà thầu đã chấp nhận thua lỗ trong việc bỏ giá thầu thấp nhằm có công ăn việc làm cho công nhân mà không nhìn hậu quả sau khi thực hiện xong dự án: phá sản. Tuy nhiên có những nhà thầu không bao giờ bị thua lỗ. Một số nhà thầu hiện nay đã khai thác được một số yếu tố có lợi từ trong quy chế đấu thầu: như Hợp đồng điều chỉnh giá. Cho nên trên thực tế giá quyết toán đầu tư xây dựng tăng lên nhiều lần so với giá trúng thầu ban đầu là chuyện ngày càng phổ biến. Điều này làm biến dạng tính tích cực của đấu thầu và trở nên hình thức vì hiệu quả thấp vì không có sự công bằng và cạnh tranh.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Hạn Chế, Bất Cập Nhìn Từ Góc Độ Hệ Thống Các Quy Định Pháp Luật Về Đấu Thầu Xây Lắp Quốc Tế
- Nguyên Nhân Của Hạn Chế, Bất Cập Trong Việc Thực Hiện Pháp Luật Đấu Thầu Đối Với Các Nhà Thầu Trong Nước Trong Đấu Thầu Xây Lắp Quốc Tế
- Giải Pháp Hoàn Thiện Hệ Thống Pháp Luật Đấu Thầu
- Hoàn Thiện Pháp Luật Đấu Thầu Xây Lắp Quốc Tế Trên Phương Diện Các Chủ Thể Thể Tham Gia Đấu Thầu
- Đấu thầu của các nhà thầu trong nước trong đấu thầu xây lắp quốc tế - 14
- Đấu thầu của các nhà thầu trong nước trong đấu thầu xây lắp quốc tế - 15
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
3.2 Các giải pháp khác
Bên cạnh giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật đấu thầu, tạo cơ sở hành lang pháp lý giúp nhà thầu Việt Nam vững vàng tham gia gói thầu xây lắp Quốc tế là các giải pháp hỗ trợ khác. Các biện pháp hỗ trợ khác này góp phần không nhỏ cho hiệu quả đấu thầu của nhà thầu Việt Nam được nâng cao trên phạm vi đấu thầu quốc tế ở Việt Nam mà còn vươn ra đấu thầu trên trường Quốc tế.
3.2.1. Nhà nước đưa ra sự hỗ trợ công tác đấu thầu quốc tế
Trong tình hình hiện nay, khi phải đương đầu với các nhà thầu nước ngoài trong cuộc cạnh tranh bình đẳng- đấu thầu quốc tế thì với nội lực của mình, các doanh nghiệp Việt Nam luôn thua kém và không thể nào dành phần thắng về mình. Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam rất cần tới sự hỗ trợ rất lớn của nhà nước để có thể thắng thầu trong những cuộc đấu thầu quốc tế. Nhà nước nên thực hiện các biện pháp sau để phần nào hỗ trợ các doanh nghiệp của mình:
- Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng tham gia đấu thầu quốc tế.
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay hầu hết quy mô đều rất nhỏ, nguồn tài chính hạn hẹp, nguồn nhân lực không được dồi dào và đặc biệt là trình độ kỹ thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp Việt Nam rất lạc hậu. Vì thế nhà nước nên thành lập các Tổng công ty mạnh cả về tài chính, nhân lực và kỹ thuật thì mới có được nhiều cơ hội hơn để tham gia và thắng trong các cuộc đấu thầu quốc tế. Trên thực tế các doanh nghiệp Việt Nam rất khó khăn trong việc xin bảo lãnh dự thầu, một điều kiện không thể thiếu khi tham gia vào đấu thầu quốc tế vì số vốn pháp định của doanh nghiệp quá nhỏ. Hơn nữa với nhiều doanh nghiệp Việt Nam thì việc lo khoản tiền đặt cọc dự thầu (từ 1 đến 5% giá trị công trình) [42] không phải là điều dễ dàng. Cho nên chúng ta khó có thể tham gia và thắng thầu trong các công trình, dự
án lớn, lợi nhuận vì thế cũng mất đi rất nhiều. Vì vậy, muốn tăng khả năng dự thầu của các doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc đấu thầu quốc tế quy mô lớn, chúng ta cần cải tổ lại hệ thống ngân hàng và các doanh nghiệp. Nhà nước cũng nên hỗ trợ họ có thể đứng vững trên thị trường xây dựng canh tranh khốc liệt hiện nay.
Thực tế hiện nay cũng đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải sát nhập thành những tập đoàn lớn mạnh. Họ dựa vào nhau. Doanh nghiệp này có lợi thế về vốn trong khi đó doanh nghiệp khác lại có lợi thế về nhân công hay kỹ thuật công nghệ hiện đại.
- Các chế độ ưu đãi.
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay rất cần tới các chế độ ưu đãi của nhà nước cho mình trong việc nhập các thiết bị máy móc hiện đại. Do công nghệ kỹ thuật trong các doanh nghiệp Việt Nam đã quá cũ kỹ lạc hậu cho nên việc thay đổi trang thiết bị là điều vô cùng cần thiết để có thể thắng thầu. Nhà nước nên có chế độ ưu đãi cho các doanh nghiệp khi nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại đồng thời cho ra đời các công ty cho thuê tài chính.
Trong quy chế đấu thầu hiện nay nhà nước cũng đã có những quy định ưu đãi cho các doanh nghiệp trong nước tham gia đấu thầu quốc tế cũng như ưu đãi về liên doanh liên kết với nhà thầu trong nước khi một nhà thầu nước ngoài trúng thầu. Thế nhưng để quy định này không mang tính hình thức nhà nước nên kiểm tra chặt chẽ hơn hợp đồng liên doanh liên kết và xử lý thích đáng khi các nhà thầu vi phạm các điều kiện này, để ra mức phạt cao đối với các vi phạm.
Tuy nhiên với bất kỳ một chế độ ưu đãi nào mà nhà nước muốn dành cho các doanh nghiệp của mình thì nhà nước cũng phải đảm bảo được tính cạnh tranh công bằng. Nếu không chúng ta sẽ không thu được kết quả mong muồn từ phương thức đấu thầu quốc tế.
3.2.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp
Có thể rút ra sau nhiều năm thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp của ngành Xây dựng Việt Nam là rất chậm. Trung bình mỗi năm Bộ Xây dựng chỉ cổ phần hoá được 2 doanh nghiệp con số quá nhỏ so với những ngành khác. Lý do của việc cổ phần hoá các doanh nghiệp trong ngành xây dựng quá chậm này là do có nhiều rào cản khó vượt qua trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp; do sự thiếu đôn đốc, thiếu kiên quyết, thiếu sự nhiệt tình của ban lãnh đạo doanh nghiệp; do chính sách cổ phần hóa còn nhiều bất cập; chưa phối hợp chặt chẽ giữa các vụ thuộc Bộ và các Tổng Công ty để giải quyết khó khăn về tài chính, lao động; lao động chưa nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của cổ phần hoá...
Vì vậy, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp muốn được thực hiện nhanh cần phải có sự quan tâm của các quan chức nhà nước. Bộ Xây dựng nên giao chỉ tiêu và tiến độ cổ phần hóa cho từng Tổng Công ty trực thuộc Bộ, coi cổ phần hóa như là một trong cách chỉ tiêu xét thưởng thi đua hàng năm của các doanh nghiệp. Bộ cũng nên chỉ đạo các giám đốc doanh nghiệp thường xuyên tự định giá giá trị doanh nghiệp vì đây là một nguyên nhân quan trọng gây ra sự trì trệ trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp.
Đồng thời nhà nước cũng nên hoàn thiện hệ thống thể chế khắc phục khó khăn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình cổ phần hóa. Nhà nước cũng không nên không chế mua cổ phần ưu đãi của người lao động trong doanh nghiệp.
3.2.3. Nâng cao năng lực đấu thầu quốc tế của các nhà thầu Việt Nam
Đấu thầu quốc tế đã xuất hiện và được áp dùng ở Việt Nam trong mấy năm vừa qua. Tuy nhiên vẫn còn nhiều chỗ chưa được hoàn chỉnh. Nhà nước nên cải tiến kỹ thuật đấu thầu quốc tế, một mặt sẽ thu hút được nhiều hơn nữa các cuộc đấu thầu quốc tế được tổ chức ở Việt Nam, mặt khác nó cũng làm tăng thêm tính cạnh tranh công bằng vốn có của phương thức này.
Mặt hạn chế lớn nhất về kỹ thuật đấu thầu ở Việt Nam hiện nay là tình trạng sử dụng phổ biến đấu thầu một phong bì. Phương án kỹ thuật và phương án tài chính đều được đặt trong cùng một túi hồ sơ dự thầu vì vậy buộc chủ đầu tư khi mở thầu phải đánh giá lần lượt từng túi hồ sơ. Điều này đỏi hỏi nhiều thời gian và công sức, chi phí. Trong khi đó đấu thầu hai túi hồ sơ được phổ biến rộng rãi trên thế giới đặc biệt là ở những nước phát triển.
Tuỳ từng điều kiện cụ thể của từng cuộc đấu thầu quốc tế (điều kiện về quy mô dự án, tính chất phức tạp về mặt kỹ thuật và công nghệ...) mà chúng ta nên chọn lựa hình thức đấu thầu một túi hồ sơ hay đấu thầu hai túi hồ sơ cho phù hợp, tiết kiệm được chi phí, công sức và thời gian của cuộc đấu thầu nhưng cũng phải đảm bảo được sự lựa chọn đúng đắn nhà cung cấp thích hợp.
Đối với những dự án lớn, những hạng mục công trình quy mô, chúng ta nên chia nhỏ dự án ra thành nhiều hạng mục nhỏ hơn để tiến hành đấu thầu quốc tế. Sự chia nhỏ dự án này một phần giúp cho chủ đầu tư bóc tách công việc chính xác từ đó dẫn đến việc tính toán, lập dự toán sát với thực tế hơn, tiết kiệm được một lượng chi phí lớn so với việc “xây dựng trọn gói” một loạt giá gộp. Ngoài ra, với điều kiện các doanh nghiệp của chúng ta rất bị hạn chế về vốn nên sự chia nhỏ dự án cũng làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam có đủ lực để tham gia vào đấu thầu quốc tế.
3.2.4. Hoàn thiện quy trình đấu thầu quốc tế
Quá trình đầu tư gồm rất nhiều công đoạn như khảo sát, thiết kế, đấu thầu, thi công nghiệm thu. Đấu thầu là một khâu trong cả một quá trình đầu tư. Vì vậy quy trình thực hiện đấu thầu quốc tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch đầu tư của chủ đầu tư. Muốn kết quả đầu tư tốt, nhà nước cũng nên cải tiến hoàn thiện những khâu công việc cụ thể sao cho sát với thực tế, không trì trệ tốn thời gian. Nhà nước nên xây dựng cho mỗi đối tượng đấu thầu một quy trình đấu thầu quốc tế riêng biệt, đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây lắp cũng cần có một quy trình đấu thầu riêng. Trong tương lai, các nhà tài trợ quốc tế