lại nhiều tổ chức, đơn vị tư vấn mà không xem xét, kiểm tra kỹ các hồ sơ, thủ tục… trước khi phê duyệt. Ngoài ra, toàn bộ quá trình đấu thầu chủ yếu do chủ đầu tư quyết định, gần như khép kín và không có cơ quan giám sát, thẩm tra, thẩm định. Các cơ quan quản lý đấu thầu hiện nay (người có thẩm quyền, Sở Kế hoạch đầu tư...) nếu có phát hiện ra thì phải sau đấu thầu, sau thanh kiểm tra, thậm chí sau khi thực hiện xong gói thầu, trừ trường hợp có kiến nghị. Bên cạnh đó năng lực chuyên môn của nhiều chủ đầu tư, bên mời thầu đặc biệt là ở cấp huyện, xã, khu vực vùng sâu, vùng xa, các bệnh viện, trường học… còn hạn chế do các chủ đầu tư, bên mời thầu chưa có kinh nghiệm, tính chuyên môn chưa cao dẫn đến chất lượng của hoạt động đấu thầu chưa được đảm bảo. Ở rất nhiều địa phương, một số chủ đầu tư là Giám đốc bệnh viện, Hiệu trưởng trường học... rất ngại xem xét, phê duyệt kết quả đấu thầu vì thiếu chuyên môn về lĩnh vực quản lý nhà nước về đấu thầu nhưng lại cũng e ngại về chất lượng của các tổ chức tư vấn đấu thầu. Do đó, các chủ đầu tư nêu trên vẫn trông mong vào sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước có chức năng quản lý nhà nước về đấu thầu. Ngoài ra, chất lượng của một số đơn vị tư vấn ở địa phương còn hạn chế, đặc biệt là tư vấn đấu thầu. Nhiều hồ sơ do các đơn vị tư vấn lập để chủ đầu tư trình thẩm định, phê duyệt không đạt yêu cầu, có nhiều sai sót dẫn đến hồ sơ không đạt chất lượng và yêu cầu theo quy định, kéo dài thời gian thẩm định, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án.
Chất lượng của một số công việc chuẩn bị cho đấu thầu vẫn còn bất cập, công tác lập, trình và phê duyệt kế hoạch đấu thầu – công cụ định hướng, kim chỉ nam cho toàn bộ quá trình đấu thầu chưa được thực hiện theo quy định. Qua kiểm tra công tác đấu thầu, nhiều địa phương không phê duyệt kế hoạch đấu thầu tổng thể mà chỉ phê duyệt cho gói thầu xây lắp áp dụng hình thức chỉ định thầu, kế hoạch đấu thầu không chia thành 3 phần công việc rõ ràng nên khi kiểm tra có nhiều dự án vượt tổng mức đầu tư đã duyệt nhưng không được phê duyệt điều chỉnh, từ đó dẫn đến sự chậm trễ hoàn thành công trình do không bố trí đủ vốn và gây nợ đọng trong xây dựng cơ bản. Ngoài ra,
chất lượng của hồ sơ mời thầu vẫn còn nhiều hạn chế. Trong một số trường hợp chỉ vì một vài chi tiết trong hồ sơ mời thầu do tư vấn lập không chuẩn xác mà có thể dẫn đến phức tạp trong đánh giá hồ sơ dự thầu, phải xử lý tình huống gây chậm trễ. Trong một số trường hợp khác còn phải hủy đấu thầu làm ảnh hưởng đến tiến độ dự án và lãng phí tiền của nhà nước.
Hình thức lựa chọn nhà thầu được áp dụng chưa đáp ứng tinh thần tiết kiệm và đảm bảo hiệu quả kinh tế: Đấu thầu rộng rãi hay đấu thầu hạn chế đều có tỷ lệ tiết kiệm cao hơn rất nhiều lần so với chỉ định thầu, cụ thể là 7,56% (đấu thầu rộng rãi) và 6,29% (đấu thầu hạn chế) lại ít được lựa chọn áp dụng. Đấu thầu rộng rãi có số gói thầu áp dụng chỉ bằng 1/5 số gói thầu chỉ định thầu nhưng mang lại giá trị tiết kiệm cao gần gấp 1,5 lần giá trị tiết kiệm do chỉ định thầu mang lại. Đấu thầu hạn chế được xem như là một hình thức lựa chọn nhà thầu kém cạnh tranh, nhưng so với chỉ định thầu thì vẫn hiệu quả hơn: số gói thầu áp dụng đấu thầu hạn chế chỉ bằng 1,86% số gói thầu áp dụng chỉ định thầu nhưng mang lại giá trị tiết kiệm cao hơn so với giá trị tiết kiệm do chỉ định thầu mang lại [39].
Vấn đề quản lý sau đấu thầu chưa được thực hiện thường xuyên và chưa được quan tâm đúng mức: Sản phẩm của quá trình đấu thầu cuối cùng là hợp đồng ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu trúng thầu. Hiệu quả đạt được từ công tác đấu thầu phụ thuộc rất nhiều vào việc thực hiện nghĩa vụ và ràng buộc giữa chủ đầu tư và nhà thầu như đã nêu trong hợp đồng. Trong một số trường hợp việc quản lý thực hiện hợp đồng còn chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là trong bối cảnh giá cả leo thang. Trong một số trường hợp ở các gói thầu xây lắp, nhà thầu có tâm lý thực hiện hợp đồng cầm chừng để được điều chỉnh giá trị hợp đồng khi có các thay đổi về chính sách của nhà nước về tiền lương, giá ca máy,... Trong một số trường hợp khác, nhà thầu khi thực hiện hợp đồng đã không đảm bảo được năng lực tài chính dẫn đến chậm trễ trong triển khai dự án. Ngoài ra, một số chủ đầu tư chưa quan tâm thực
hiện công tác giám sát thi công, đôn đốc các nhà thầu xây lắp đảm bảo tiến độ đúng quy định.
Hoạt động kiểm tra đấu thầu chưa được thực hiện đồng đều ở các Bộ, ngành và địa phương, theo báo cáo của Bộ, ngành, địa phương, nội dung kiểm tra đấu mới chỉ được lồng ghép trong hoạt động giám sát, thanh tra tổng thể đầu tư, chưa thực hiện kiểm tra mang tính chuyên sâu về nghiệp vụ. Do đó, kết quả kiểm tra còn nhiều hạn chế, chưa bao quát được bức tranh toàn cảnh về tình hình thực hiện đấu thầu của Bộ ngành, địa phương và còn chưa kịp thời chấn chỉnh công tác đấu thầu.
Công tác báo cáo tình hình xử lý vi phạm chưa đầy đủ, theo quy định của Luật Đấu thầu, Quyết định xử lý vi phạm của người có thẩm quyền phải gửi đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp và đăng tải rộng rãi. Qua đó, chủ đầu tư, bên mời thầu biết được đơn vị nào bị cấm tham gia hoạt động đấu thầu do khi đã bị cấm đấu thầu tại một địa phương sẽ bị cấm tham gia hoạt động đấu thầu trên toàn quốc. Tuy nhiên từ khi Luật Đấu thầu có hiệu lực đến nay việc xử lý vi phạm đã được thực hiện ở nhiều địa phương, Bộ ngành nhưng số lượng các Quyết định xử lý vi phạm gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư còn rất hạn chế.
2.4 Nguyên nhân của hạn chế, bất cập trong việc thực hiện pháp luật đấu thầu đối với các nhà thầu trong nước trong đấu thầu xây lắp Quốc tế
2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Định Của Việt Nam Về Luật Áp Dụng Và Giải Quyết Tranh Chấp Trong Đấu Thầu Xây Lắp Quốc Tế.
- Những Kết Quả Đạt Được Trong Việc Thực Hiện Pháp Luật Đấu Thầu Đối Với Các Nhà Thầu Trong Nước Trong Đấu Thầu Xây Lắp Quốc Tế Nhìn Từ Góc
- Những Hạn Chế, Bất Cập Nhìn Từ Góc Độ Hệ Thống Các Quy Định Pháp Luật Về Đấu Thầu Xây Lắp Quốc Tế
- Giải Pháp Hoàn Thiện Hệ Thống Pháp Luật Đấu Thầu
- Nhà Nước Đưa Ra Sự Hỗ Trợ Công Tác Đấu Thầu Quốc Tế
- Hoàn Thiện Pháp Luật Đấu Thầu Xây Lắp Quốc Tế Trên Phương Diện Các Chủ Thể Thể Tham Gia Đấu Thầu
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Mặc dù nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường được 15 năm song ngành xây dựng luôn đi sau các ngành khác. Hình thức đấu thầu dù sao vẫn còn tương đối mới trong thị trường xây dựng Việt Nam. Các Công ty xây lắp Việt Nam đang trong quá trình vừa thực hiện vừa học hỏi. Vì vậy việc cạnh tranh trong những công trình lớn với nhà thầu và chủ đầu tư nước ngoài là rất khó khăn. Thị trường xây dựng đang là thị trường phát triển với tốc độ cao, vốn đầu tư vào xây dựng ngày càng nhiều và đây là
một thị trường tiềm năng nên các Công ty cạnh tranh nhau rất quyết liệt. Các nhà thầu trong nước đa số mới hoạt động nên chưa có kinh nghiệm trước những nhà thầu đã “lão luyện” của phía nước ngoài. Mặt khác văn bản pháp quy về đầu tư xây dựng cơ bản chưa đầy đủ, thiếu tính đồng bộ, qui định chưa chi tiết, đặc biệt là trong qui chế đấu thầu việc qui định chế độ ưu đãi đối với nhà thầu trong nước tham gia đấu thầu quốc tế còn mang tính chung chung, chưa cụ thể nên trên thực tế nhà thầu Việt Nam chưa được hưởng những ưu đãi này.
Nhìn chung thì các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thì các nhà thầu Việt Nam hầu như ít có cơ hội làm tổng thầu, tỷ lệ thầu chính thấp, đa số làm thầu phụ. Những gói thầu chính trúng thầu phần lớn là những gói thầu san nền, làm móng hoặc xây dựng phần thô. Những gói thầu làm tổng thầu có thiết kế, công nghệ cao nhà thầu Việt Nam chưa đủ khả năng dự thầu. Hình thức thầu phụ cũng rất đa dạng, có công trình thầu phụ dưới dạng hợp tác với nhà thầu chính nước ngoài, có công trình thông qua bản ghi nhớ, cung cấp giá cho nhà thầu nước ngoài đứng ra đấu thầu, cũng có công trình nhận thầu phần nhân công. Nhưng giá cả làm thầu phụ thường bị các nhà thầu chính nước ngoài bắt chẹt, dưới các hình thức gọi phiếu chào giá từng công việc tới nhà thầu Việt Nam, rồi sau đó chọn giá thấp nhất để hợp đồng giao việc. Có nhà thầu Việt Nam tham gia đấu thầu bằng bản ghi nhớ, nhưng khi thắng thầu chỉ được làm một phần còn lại nhà thầu nước ngoài giao cho nhà thầu phụ Việt Nam khác có giá thấp hơn. Có trường hợp nhà thầu nước ngoài đơn phương cắt hợp đồng đối với nhà thầu Việt Nam hoặc nhà thầu thắng thầu bán lại cho các nhà thầu khác.
Về phương pháp xét thầu, đôi khi chỉ dựa vào hồ sơ dự thầu của các nhà thầu, thiếu thông tin thực tế, do đó khi đánh giá năng lực nhà thầu chưa đảm bảo độ chính xác. Các nhà thầu Việt Nam nhiều khi cũng bị xem thường trong khi đấu thầu ngay cả những công trình có vốn trong nước. Tình trạng
này diễn ra ở một số ngành, địa phương, khi một nhân vật quan trọng nào đó muốn cho một hãng dự thầu A thắng cuộc, thì dù hãng thầu B có năng lực kỹ thuật tốt và đề xuất giá thầu khá hợp lý, cũng không được chấp nhận. Năng lực của nhà thầu phải dựa trên các yếu tố về vốn, năng lực nhân sự và kinh nghiệm nghề nghiệp. Việc đánh giá cho điểm các hồ sơ dự thầu hiện nay cũng không công bằng, tuy có điểm chuẩn nhưng chỉ tiêu đặt ra chưa định lượng được, việc cho điểm mang tính chủ quan, thiên vị. Nhà thầu nước ngoài không phải nhà thầu nào cũng mạnh, có những nhà thầu nước ngoài năng lực còn yếu kém hơn nhà thầu trong nước. Mặt khác nhà thầu nước ngoài, với các quy chế quản lý nhà thầu nước ngoài lỏng lẻo như hiện nay thì chủ đầu tư cũng khó mà đánh giá nhà thầu một cách chính xác được.
Một khó khăn nữa cho nhà thầu Việt Nam là qui chế của các tổ chức cho vay vốn đầu tư. Các dự án ODA xây dựng công trình kết cấu hạ tầng khi giao cho các bộ chuyên ngành làm chủ đầu tư thì các Công ty, Tổng Công ty trực thuộc bộ đó không được tham gia đấu thầu theo thông lệ quốc tế. Mặc dầu các đơn vị này cũng rất mạnh và có nhiều kinh nghiệm, truyền thống về xây dựng, lắp đặt những công trình nói trên. Chẳng hạn các dự án xây dựng điện, xây dựng nhà máy xi măng... đối với những Tổng Công ty, Công ty thuộc Bộ Xây dựng. Hoặc dự án cầu đường cảng với những đơn vị thuộc Bộ Giao thông vận tải. Hay dự án nạo vét, xây dựng thuỷ nông đối với những đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn v.v... Quy định này Ngân hàng Thế giới (WB) và các tổ chức tài trợ quốc tế khác đang kiên trì theo đuổi.
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Tổ chức quản lý và nhân sự: Năng lực tổ chức quản lý được thể hiện ở việc tổ chức quá trình xây dựng, tổ chức lao động đảm bảo đúng tiến độ và đúng chất lượng trong tài liệu giải trình các biện pháp thực hiện. Thực tế cho thấy các nhà thầu Việt Nam còn thua kém các nhà thầu nước ngoài rất nhiều ở
điểm này. Trình độ quản lý của đội ngũ quản lý ở các doanh nghiệp xây lắp là chưa cao, cơ cấu không linh hoạt nên không ứng phó kịp thời với những thay đổi của môi trường, xử lý các sự cố còn chậm, chưa chính xác. Các phòng ban chức năng của các doanh nghiệp xây lắp cũng chưa hợp lý. Đội ngũ cán bộ quản lý, trình độ năng lực, kinh nghiệm còn yếu kém, trách nhiệm cá nhân với công việc còn chưa cao.
Vì đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp: tính ổn định không cao, thay đổi theo công trình vì vậy sự linh hoạt của cơ cấu tổ chức có vai trò quan trọng tuy nhiên với các doanh nghiệp xây lắp hiện nay thì lại không có sự đoàn kết gắn bó giữa cán bộ quản lý và người lao động, sự phối hợp giữa các bộ phận trong lập hồ sơ dự thầu và thực hiện hợp đồng không ăn ý. Bầu không khí làm việc trong các Công ty xây lắp chưa tích cực hăng say và có nền nếp.
Đội ngũ công nhân viên trong các Công ty xây lắp thường trẻ, do đó còn hạn chế về mặt kinh nghiệm. Lao động của các doanh nghiệp thường là hợp đồng trung và dài hạn tuy nhiên số lao động thuê ngoài và làm hợp đồng ngắn hạn cũng chiếm một khối lượng đáng kể, gây khó khăn tới chất lượng công trình cũng như tiến độ thi công vì số lao động này không ổn định, mất thời gian tìm kiếm và đào tạo.
Hơn nữa cơ cấu tổ chức cồng kềnh, nhiều phòng ban, năng lực trình độ chuyên môn lại không cao. Vì vậy, với đội ngũ lao động đó thì doanh nghiệp xây lắp trong nước khó có khả năng thắng thầu các dự án có quy mô lớn. Đội ngũ lao động lành nghề, nhiều kinh nghiệm là một điểm mạnh của một doanh nghiệp xây lắp. Điều này ai cũng biết nhưng để đạt được thì không phải là dễ, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức quản lý của doanh nghiệp, khả năng lãnh đạo doanh nghiệp của đội ngũ cán bộ quản lý. Cả đội ngũ quản lý và lao động của doanh nghiệp đều chưa đáp ứng được yêu cầu
ngày càng cao của các gói thầu do đó để nâng cao khả năng thắng thầu thì đây là một yếu tố mà doanh nghiệp xây lắp cần quan tâm sâu sát.
Máy móc thiết bị: Do sự phát triển của khoa học công nghệ, ngày nay máy móc không thể thiếu được trong bất cứ một loại hình sản xuất nào. Tuỳ thuộc vào mức độ sử dụng là nhiều hay ít. Trong xây dựng cũng vậy, máy móc giúp con người trong những công việc sử dụng nhiều về lực. Đối với các doanh nghiệp xây lắp thì máy móc thường được sử dụng trong đào móng đóng cọc, nhào trộn bêtông, máy phát điện, máy bơm, các loại xe phục vụ cho công tác san lấp cũng như vân chuyển nguyên vật liệu. Đặc trưng của các thiết bị này thường là công suất khá lớn, cồng kềnh và giá của thiết bị thường cao.
Thực tế, các doanh nghiệp xây lắp của Việt Nam có trang thiết bị thường lạc hậu, cũ kỹ, nhập từ các nước Đông Âu, hoặc của các nước trong khu vực. Máy móc thiết bị thường có công suất nhỏ, không đáp ứng được trong việc thi công các công trình lớn, chủ yếu chỉ đáp ứng được các công trình nhỏ, thi công các công trình xây dựng dân dụng là chính. Khi thi công những công trình lớn, những công trình có kết cấu hạ tầng phức tạp thì các doanh nghiệp xây lắp thường phải đi thuê. Mặt khác số lượng máy móc thiết bị của doanh nghiệp xây lắp cũng không nhiều. Máy móc thiết bị lại không đồng bộ, mang tính chắp vá. Mặt khác sự cung cấp nguyên nhiên vật liệu chưa được kịp thời, ảnh hưởng tới tiến độ thi công công trình. Nguyên nhân chính ở đây cũng là do thiếu vốn đầu tư.
Với những máy móc thiết bị như vậy thì các doanh nghiệp xây lắp trong nước khó có khả năng thắng thầu các công trình xây dựng phải tổ chức đấu thầu quốc tế. Chỉ tiêu kỹ thuật và chất lượng công trình là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá nhà thầu. Vì vậy nhà thầu trong nước muốn nâng cao khả năng thắng thầu phải mạnh dạn đầu tư cho máy móc thiết bị.
Năng lực tài chính: Khả năng tài chính của các doanh nghiệp xây lắp trong nước còn quá hạn chế so với các doanh nghiệp nước ngoài, trừ một số Công ty, Tổng công ty thuộc bộ chủ quản là có khả năng tài chính ổn định. Nhìn chung thì tỉ lệ nợ thường cao, vốn chủ sở hữu thấp, khả năng thanh toán thấp. Các doanh nghiệp xây lắp trong nước có khả năng thu hồi vốn thấp, cơ cấu vốn chưa hợp lý, vốn cố định khá lớn tuy nhiên chủ yếu là nhà xưởng, máy móc thiết bị còn thiếu. Vốn của doanh nghiệp chủ yếu là vồn vay ngắn hạn. Trong quá trình dự thầu thì việc tính giá gói thầu cũng chưa chính xác. Điều này cho thấy tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp xây lắp trong nước còn yếu, hoạt động sản xuất kinh doanh chưa hiệu quả. Với tiềm lực tài chính như vậy thì doanh nghiệp xây lắp khó mà thắng thầu. Các doanh nghiệp cần có biện pháp khắc phục để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Nhìn chung các nhà thầu trong nước chưa thể hiện sức mạnh cạnh tranh của mình trong các gói thầu đấu thầu quốc tế chủ yếu biểu hiện ở các yếu tố sau:
- Số lượng máy móc thiết bị, vốn và tình hình tài chính phục vụ sản xuất kinh doanh cũng như số lượng công nhân còn hạn chế nên năng suất sản xuất của công ty không cao, khó có khả năng thắng thầu những công trình lớn.
- Đa số cán bộ trong doanh nghiệp xây lắp thường trẻ nên thiếu kinh nghiệm trong quản lý cũng như thi công.
- Sự không đồng đều về ngành nghề đào tạo nên khó khăn trong việc bố trí công tác cho phù hợp với công việc.
- Thiếu bộ phận chuyên làm Marketing nên thiếu thông tin, phân tích xử lý thông tin không kịp thời và đầy đủ.
- Thiếu bộ phận chuyên làm công tác đấu thầu.