Những Vấn Đề Phát Sinh Thường Gặp Trong Đấu Thầu Quốc Tế Mua Sắm Hàng Hóa

Cạnh tranh về giá là tương đối rõ ràng, nhưng cạnh tranh về mặt kỹ thuật là vấn đề phức tạp. Trong khi đó kỹ thuật lại là yếu tố then chốt trong đấu thầu đặc biệt với với phương thức hai giai đoạn và hai phong bì cho những gói thầu mua sắm hàng hóa lớn, quan trọng.

Những hạn chế nêu trên về các quy định làm mất đi tính cạnh tranh trong đấu thầu quốc tế, là vấn đề để các nhà lập pháp, nhà làm luật, đối tác tài trợ xem xét đưa ra những quy định nhằm hạn chế hiện tượng tiêu cực này.

3.1.2.6. Về chuyên môn và quản lý

Trước hết phải nói đến nhân lực của bộ máy thẩm định đánh giá thầu vừa thiếu vừa yếu. Mặc dù các hoạt động đấu thầu cũng như cơ sơ pháp lý của nó đang trên đà phát triển và hoàn thiện nhanh, nhưng trình độ nhận thức của nhiều cơ quan quản lý đấu thầu vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển đó. Trong khi đó cán bộ quản lý đấu thầu chủ yếu là kiêm nhiệm; kinh nghiệm của cán bộ hợp đồng thì kém. Dẫn đến tình trạng quản lý đấu thầu gặp nhiều sai phạm trong thời gian qua. Đặc biệt là trong công tác thẩm định, xét duyệt còn nhiều trường hợp áp đặt ý kiến chủ quan cá nhân để đạt lợi ích riêng.

Đối với đơn vị thực hiện mua sắm là các ban quản lý (PMU), họ thường cho mình có quyền quyết định lựa chọn nhà thầu. Mặc dù theo quy định chung thì họ chỉ là người đại diện chủ đầu tư thực hiện một số công việc theo kế hoạch đã được chủ đầu tư phê duyệt, nhưng thực tế với quyền được giao như tổ chức đấu thầu, thanh quyết toáncác đơn vị thực hiện mua sắm đấu thầu có quyền hạn vô cùng lớn. Trong khi đó, pháp luật không có bất kỳ quy định nào điều chỉnh đối tượng là các "Ban quản lý dự án" - đơn vị thực hiện dự án - đại diện chủ đầu tư. Do vậy, trong quản lý thực hiện mua sắm đấu thầu còn rất nhiều hạn chế liên quan đến nhận thức về quyền hạn, trách nhiệm của mình do cơ chế tạo ra. Cụ thể:

- Khi xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật, họ không quy định những tiêu chuẩn kĩ thuật một cách khách quan, mà thường cố gắng quy định với những

mục đích riêng của họ. Ngoài ra, họ có thể đưa ra những tiêu chuẩn chung chung, mập mờ về cả tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn đánh giá để dễ dàng lựa chọn nhà thầu theo ý của mình;

- Họ thường đánh giá hồ sơ dự thầu một cách chủ quan, thay vì bám sát hồ mời thầu với những tiêu chuẩn đánh giá đã quy định trước. Thậm chí có thể báo cáo đánh giá sai lệch hoặc thiếu để phục cho mục đích cá nhân trong quá trình xét thầu. Một số trường hợp đơn vị thực hiện mua sắm còn bổ sung, chỉnh sửa các tiêu chuẩn phạm vi đánh giá đã tuyên bố công khai để hợp thức hóa ý định chủ quan của mình;

- Trong nhiều trường hợp, đơn vị thực hiện mua sắm đưa ra các tiêu chuẩn mua sắm quá cao, không cần thiết và không phù hợp với kế hoạch, mục tiêu của dự án đã được duyệt. Hậu quả là nhiều trường hợp đấu thầu rộng rãi mà không có nhà thầu nào tham gia hoặc hàng hóa chào thầu có giá vượt kế hoạch. Việc này sẽ gây ra tốn kém trong tổ chức quản lý đấu thầu, đồng thời làm chậm tiến độ giải ngân và hoàn thành dự án;

- Ngoài ra, các đơn vị thực hiện mua sắm tỏ ra thiếu chuyên môn về hàng hóa mình định mua, cũng như kinh nghiệm về vận dụng các thủ tục, quy định về mua sắm đấu thầu. Một số trường hợp khác tỏ ra thiếu kiến thức về kinh tế như thương thảo hợp đồng, thủ tục thanh toán, giao nhận hàng hóa, giải quyết các vướng mắc về thuế, hải quan

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

Về các quy định về đấu thầu hoặc hướng dẫn mua sắm đấu thầu, thường khi ban hành, nhà làm luật đã tiên lượng các trường hợp có thể xảy ra để đảm bảo hiệu quả điều chỉnh quản lý bằng pháp luật là cao nhất, nhưng trong xã hội có rất nhiều mối quan hệ đan xen, gắn bó hữu cơ với nhau tạo ra một hệ thống các ứng xử phức tạp đối với các quy định pháp luật đó. Một nhóm người thì tuân theo quy định của pháp luật, nhóm khác lại không muốn làm theo mặc dù biết rõ quy định của pháp luật về các vấn đề có liên quan trong đấu thầu; một nhóm lại không biết pháp luật quy định về vấn đề này như thế nào

Việc giám sát tuân thủ pháp luật đấu thầu là điều cần thiết, nhưng vì lợi ích cá nhân, ngay cá nhân người giám sát và người bị giám sát, quản lý lại tìm mọi cách để lách luật. Đây là một trong nhưng hành vi tiêu cực phổ biến nhất trong hoạt động đấu thầu. Vì vậy, các chế tài để ngăn chặn, xử lí phải thường xuyên thay đổi, bổ sung cho phù hợp trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.‌

Quy chế đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng hóa - 14


3.2 NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT SINH THƯỜNG GẶP TRONG ĐẤU THẦU QUỐC TẾ MUA SẮM HÀNG HÓA

3.2.1. Về nhà thầu

Mặt trái của quy luật cạnh trạnh trong nền kinh tế thị trường nói chung và trong đấu thầu quốc tế nói riêng tạo ra những hạn chế cần phải được xem xét tới. Đối với các gói thầu quốc tế lớn, lợi nhuận cao, các nhà thầu cố gắng giành được hợp đồng bằng mọi cách đã gây ra những hoạt động ngoài khuôn khổ của luật pháp cho phép. Ví dụ: để trúng thầu có thể nhà thầu phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo mối quan hệ, gây áp lực, tạo tình cảm, tranh thủ hỗ trợ, moi thông tin bất hợp pháp, lợi dụng tranh thủ sự ảnh hưởngđối với những cán bộ mua sắm hoặc cơ quan thực hiện mua sắm, thẩm định, đánh giá thầu. Ngoài ra, nhà thầu có thể lợi dụng quy định lỏng lẻo của pháp luật để công bố các thông tin sai lệch về năng lực pháp lý và năng lực về kinh nghiệm của mình nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh đối với các đối thủ khác.

Nhà thầu cũng có thể có hành động cấu kết, thông đồng để đạt mục đích của mình. Đó là mưu đồ hay kế hoạch sắp xếp giữa hai hoặc nhiều nhà thầu, được hoặc không được Bên mời thầu biết, để tạo nên giá thầu giả tạo ở mức không có tính cạnh tranh. Nhóm các nhà thầu đó có thể lợi dụng quy định mời thầu rộng rãi để chào nhiều mức giá khác nhau cho mỗi hồ sơ dự thầu. Đây cũng là hình thức biến tướng tinh vi của chào giá không cố định.

Một thực tế nữa thường gặp trong đấu thầu là việc chào hàng về kỹ thuật và giá cả mập mờ có thể hiểu theo nhiều cách hoặc chào giá không cố

định. Khi chào về kỹ thuật, nhà thầu có thể tuyên bố đáp ứng hoàn toàn, nhưng đó chỉ là tuyên bố giả mạo, bất chấp sự kiểm tra kỹ lưỡng ca-ta-lô của nhà sản xuất để phát hiện ra hành vi gian lận này. Nhà thầu cũng có thể chào giá bằng chữ và số khác nhau hoặc tạo ra sai số số học để nhằn mục đích riêng. Đặc biệt là các điều khoản thương mại luôn được nhà thầu tính toán kỹ để tạo thuận lợi cho mình. Nhà thầu có thể dùng các chào giá lựa chọn, chào giá thay thế hoặc chào giá không cố định, giảm giá gắn liền với các điều kiện ràng buộc khác. Vì vậy, việc hướng dẫn nhà thầu và quy định về mua sắm phải chặt chẽ để tránh trường hợp nhà thầu căn cứ vào các thủ thuật trên để khiếu kiện kéo dài, gây tổn thất cho bên mời thầu- chủ đầu tư.

Đặc biệt, khi trượt thầu, các nhà thầu thường có tâm lý muốn biết tại sao mình bị trượt thầu. Họ thường đòi hỏi bên mời thầu giải thích lý do. Nhưng dù với bất kỳ lí do nào thì việc có đồng quan điểm giữa hai bên là rất khó xảy ra. Do vậy, rất dễ dẫn đến viêc khiếu nại làm chậm tiến độ mua sắm giải ngân.

Đối với các nhà thầu được mời thương thảo để trao hợp đồng, đôi khi họ cũng gây khó dễ cho bên mua phải đáp ứng các điều kiện thương mại giao hàng, thậm trí sửa đổi tiêu chuẩn kỹ thuật, thay mô-đen hàng hóa, năm sản xuấtđể có được lợi nhuận cao nhất và ít rủi ro nhất về mình. Họ đánh giá được vị trí của mình và những khó khăn của Bên mời thầu nếu phải mời thầu, trình phê duyệt lại.

Những vấn đề gặp phải đối với nhà thầu là rất phức tạp và thay đổi theo từng hoàn cảnh, bởi có rất nhiều nhà thầu trong đấu thầu cạnh tranh quốc tế với nhiều cách thức hành động khác nhau. Việc đánh giá, nghiên cứu vấn đề này phải thực sự nghiêm túc để có những quy định, hướng dẫn đấu thầu, hướng dẫn nhà thầu có hiệu quả cao.

3.2.2. Vấn đề liên quan đến xã hội

Dư luận xã hội là yếu tố tích cực để giúp hoạt động đấu thầu tuân thủ đúng pháp luật. Nó vừa có ý nghĩa giám sát hoạt động này, vừa là động lực để

các hoạt động đấu thầu đi đúng hướng. Tuy nhiên không phải mọi trường hợp các ý kiến dư luận của công chúng đều đúng. Các thông tin đó cần được nghiên cứu, đánh gía, phân tích chính xác giá trị đích thực của nó. Bởi vì trong nhiều trường hợp một hay một số nhà thầu đã phản ánh thông tin sai lệch tới công chúng để đạt lợi ích riêng của mình.

3.2.3. Về nhận thức, tổ chức thực hiện đấu thầu quốc tế

Đa số các cán bộ phụ trách đấu thầu chưa phân biệt được sự khác biệt giữa hình thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế với các hình thức khác. Dó đó, chưa thấy được tính chất và mục đích của đấu thầu quốc tế. Đó là tính cạnh tranh, công bằng, công khai và minh bạch. Chính tính chất này đem lại hiệu quả kinh tế, tiết kiệm vốn đầu tư hơn so với các hình thức đấu thầu khác như chỉ định thầu, đấu thầu hạn chế

Do không nhận thức đầy đủ các quy định của pháp luật về đấu thầu cũng như các hướng dẫn của Chính phủ và các nhà tài trợ nên việc thực hiện các bước yêu cầu đã không phù hợp. Việc này đã làm lãng phí thời gian và tiền bạc. Đặc biệt, nó làm các thông tin bị rò rỉ hoặc bị tiết lộ, tạo điều kiện cho những hành vi tiêu cực trong đấu thầu phát sinh. Ngoài ra, việc áp dụng sai quy trình còn dẫn đến khiếu kiện về tính chính xác, công khai minh bạch trong hoạt động đấu thầu. Ví dụ: Việc mở thầu phải được tiến hành công khai ngay sau thời điểm đóng thầu (Điều 33 khoản 3 Luật đấu thầu 2005), nhưng trong nhiều trường hợp việc mở thầu được thực hiện rất lâu sau khi đóng thầu.

Việc quyết định tổ chuyên gia chấm thầu với quá nhiều chuyên gia không đủ năng lực nhằm gây sức ép trong kết quả chấm thầu cũng là vấn đề ảnh hưởng lớn đến chất lượng đánh giá gói thầu. Hậu quả là hàng hóa không đáp ứng được yêu cầu, giá cả không mang tính cạnh tranh.

Một số đơn vị thực hiện mua sắm đấu thầu quốc tế còn tùy tiện sửa đổi hồ sơ mời thầu trong qua trình đấu thầu. Ví dụ, gói thầu mua thang máy - Trung tâm thương mại Hà Nội- Tràng Tiền Plaza [40].

Tóm tắt: Trong hồ sơ mời thầu Gói thầu số 6 đã ghi rõ: "Xuất xứ thiết bị hàng hóa phải của châu Âu, Nhật Bản, Bắc Mỹ cho tất cả các bộ phận".

Sau khi phải hủy bỏ kết quả này lần đầu vì tất cả 4 nhà thầu đều vi phạm. Ngày 25/6/2001 mở thầu lần thứ 2, sau đó chủ đầu tư nêu rõ kết quả là "Công ty Thang máy Thiên Nam đã bị loại do chào thầu cung cấp thang máy được sản xuất tại nhà máy của LG (Hàn Quốc). Hai nhà thầu còn lại là Công ty liên doanh Thang máy SGE-Schindler và Công ty liên doanh Thang máy OTIS-LILAMA".

Nhưng ngày 11/7/2001, chủ đầu tư lại gửi một công văn tới các các nhà thầu, quyết định cho mở rộng xuất xứ thiết bị từ tất cả các nước trên thế giới và yêu cầu tư vấn xét thầu lại, nhưng chỉ cần tập trung xem xét lại hai nhà thầu là Công ty Thang máy Thiên Nam và SGE-Schindler, mặc nhiên loại Công ty liên doanh Thang máy OTIS-LILAMA

Nhận xét: Việc quyết định cho mở rộng xuất xứ hàng hóa thiết bị đối với Gói thầu số 6 khi đã có báo cáo kết quả chấm thầu và yêu cầu tư vấn đánh giá lại các hồ sơ dự thầu của các nhà thầu là vi phạm quy chế đấu thầu và không đảm bảo tính công bằng giữa các nhà thầu. Mặt khác, trong quá trình chuẩn bị hồ sơ dự thầu, không có nhà thầu nào hỏi hoặc yêu cầu cho mở rộng xuất xứ hàng hóa thiết bị. Vì thế, những hồ sơ thầu không đáp ứng được yêu cầu này bị loại là đúng luật. Nếu sửa xuất xứ khác, giá hàng hóa sẽ chênh lệch rất lớn.

Ở đây, vấn đề đặt ra là: vì sao hồ sơ mời thầu quy định rất rõ xuất xứ hàng hóa thiết bị thay đổi và vì sao việc mở rộng xuất xứ hàng hóa thiết bị lại được đưa ra sau khi đã mở thầu lần 2. Việc mở rộng xuất xứ hàng hóa thiết bị là để nhằm mục đích cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Thiên Nam - nhà thầu chỉ có xuất xứ hàng hóa thiết bị từ Hàn Quốc lọt vào vòng cuối cùng là trái quy định và làm mất tính cạnh tranh trong đấu thầu quốc tế.

Như vậy, thực tế đã xuất hiện tình trạng một số chủ đầu tư đã cố tình sửa đổi hồ sơ mời thầu để tạo điều kiện cho công ty có năng lực cạnh tranh thấp vào đánh giá và loại các nhà thầu có năng lực cạnh cao ngay từ vòng

đầu. Thậm chí còn kết hợp lắt léo, bằng mọi giá tạo điều kiện cho một nhà thầu nào đó trúng thầu. Trong một số trường hợp khác, bên chủ đầu tư còn tự ý sửa đổi tiêu chuẩn đánh giá sau khi đã công bố công khai trong hồ sơ thầu, nhằm đưa ra tiêu chuẩn đánh giá có lợi nhất cho một nhà thầu nhất định. Tóm lại, hiện tượng vi phạm luật pháp về đấu thầu quốc tế trong thời gian qua là rất phổ biến, xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi, ở hầu hết các bộ ngành, trung ương và địa phương.

3.2.4. Về nghiệp vụ quản lý đấu thầu

Thực tế hoạt động đấu thầu liên quan trực tiếp và gián tiếp tới nhiều vấn đề, nhiều ngành và nhiều cơ quan hữu quan. Các mối quan hệ này chủ yếu thông qua các kênh hành chính thủ tục như: thẩm định nghiên cứu khả thi, phê duyệt nghiên cứu khả thi, thẩm định và phê duyệt kế hoạch đấu thầu, phê duyệt hồ sơ mời thầu, thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu, phê duyệt hợp đồng. Quá trình này diễn ra không chỉ trong nội bộ cơ quan chủ quản, Bộ Tài chính, Kho bạc mà còn diễn ra theo quy trình của nhà tài trợ. Do vậy, thời gian dành cho công tác thẩm định và phê duyệt rất nhiều.

Hoạt động đấu thầu không chỉ bị ảnh hưởng bởi phải thực hiện qua nhiều bước, nhiều thủ tục hành chính, qua nhiều cấp, nhiều cơ quan mà còn bị ảnh hưởng bởi chất lượng thẩm định và phê duyệt trong từng khâu. Về chất lượng phê duyệt của phía nhà tài trợ nước ngoài thì khó đánh giá, bởi họ có những quy định, tiêu chuẩn riêng rất chặt chẽ. Riêng đối với chất lượng các văn bản thẩm định, quyết định phê duyệt của phía Chính phủ Việt Nam là vấn đề cần được xem xét để nâng cao hơn nữa.

Kết quả cho thấy, rất nhiều gói thầu phải mời thầu lại nhiều lần. Nguyên nhân thì có rất nhiều, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là các cấp phê duyệt, thẩm định đã không thực hiện đúng vai trò của mình. Ví dụ, về kế hoạch đấu thầu quốc tế, cơ quan thẩm quyền là Bộ Kế hoạch và Đầu tư thường khó có thể đánh giá được giá kế hoạch có phù hợp với thị trường hay không đối với những mặt đặc thù trong ngành y tế. Do vậy, giá kế hoạch được

phê duyệt thấp hơn nhiều so với giá thị trường, làm cho chủ đầu tư phải đấu thầu rất nhiều lần, tốn thời gian và công sức mà không mua được hàng theo đúng yêu cầu, tiến độ.

Việc thực hiện đúng trách nhiệm và vai trò của các cơ quan thẩm định, phê duyệt được Nhà nước giao quyền không chỉ là yêu cầu mang tính lương tâm, đạo đức nghề nghiệp mà còn xuất phát từ những đòi hỏi của xã hội để công tác đấu thầu vận hành đi vào khuân khổ đạt chất lượng cao.

3.2.5. Về chính sách đấu thầu

Hệ thống văn bản pháp luật quy định về chính sách của Nhà nước về đấu thầu thì nhiều, nhưng văn bản hướng dẫn vừa thiếu, vừa chậm. Đơn cử như khung pháp lý cao nhất quy định về đấu thầu là Luật đấu thầu 2005, được Quốc hội thông qua từ ngày 29/11/2005, đến ngày 1/4/2006 có hiệu lực, nhưng đến nay, sau gần 1 năm thực hiện vẫn chưa có văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành, mà vẫn phải tạm thời áp dụng Quy chế đấu thầu cũ theo nguyên tắc hướng dẫn áp dụng của Công văn số 2820/BKH-QLĐT ngày 21/4/2006 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: "Trong thời gian chưa có Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu có thể tham khảo các nội dung liên quan trong Quy chế Đấu thầu" hiện hành "nhưng đảm bảo không trái với quy định của Luật Đấu thầu".

Vì vậy, việc thực hiện đấu thầu theo luật hiện hành là rất khó. Do không có hướng dẫn cụ thể để xử phạt các hành vi vi phạm Luật đấu thầu 2005, nên một mặt không khuyến khích được đông đảo mọi người chấp hành quy định về đấu thầu, đó cũng lại là kẽ hở để các nhà thầu lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.

Các quy định của pháp luật hiện hành về phân cấp quản lý cũng rất rườm rà, nặng về thủ tục hành chính. Việc phân cấp thẩm định và phê duyệt qua mỗi tầng, mỗi nấc không hợp lý đã tạo ra nhiều "cửa" thủ tục hành chính. Điều này sẽ gây ra tệ nạn "đi cửa sau" phổ biến trong xã hội.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/12/2023