So Sánh Với Quy Trình Giám Sát Quản Lý Của Các Nhà Tài Trợ Wb, Adb, Sida Với Việt Nam

Đây là vấn đề được tranh luận có nên đưa vào Hồ sơ mời thầu một cách công khai hay chỉ Bên mời thầu biết sau khi có phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền. Thực tế thì vấn đề này được quy định trong hướng dẫn của WB, ADB, UNCITRAL là phải được nêu rõ trong hồ sơ mời thầu. Một mặt tạo ra tính cạnh tranh trong đấu thầu, mặt khác tránh những hành vi tiêu cực của nhà thầu do sử dụng mọi cố gắng để có được thông tin này.

Ví dụ: ADB quy định tại Phần III - Hướng dẫn người sử dụng mua sắm hàng hóa (ADB, tháng 6/2000, trang 18): "Bên mua phải chuẩn bị Tiêu chuẩn đánh giá và năng lực nhà thầu và đưa nó vào trong Hồ sơ mời thầu".

Trong đó các nhà tài trợ quốc tế đều quy định hai nội dung lớn là:

- Các tiêu chuẩn đánh giá gồm: phạm vi, các tiêu chuẩn kỹ thuật, các tiêu chuẩn kinh tế và ưu đãi.

- Các tiêu chuẩn về năng lực nhà thầu: về tài chính, kinh nghiệm, khả năng cung cấp, tranh chấp.

Trong luật pháp về đấu thầu quốc tế của Việt Nam thì đây cũng là vấn đề lần đầu tiên được nêu ra tại Luật đấu thầu 2005. Điều 28, khoản 1 Luật đấu thầu 2005 nêu rõ: "Việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu".

Việc quy định chi tiết nội dung các tiêu chuẩn đánh giá do Chính phủ quy định tại Nghị định hướng dẫn Luật đấu thầu 2005. Trong dự thảo Nghị định hướng dẫn, vấn đề này được nêu cụ thể tại Điều 25 - đối với gói thầu mua sắm hàng hoá. Trong đó tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu đối với gói thầu mua sắm hàng hoá gồm tiêu chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm, tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật và cách xác định chi phí trên cùng một mặt bằng, cụ thể:

- Tiêu chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu (áp dụng đối với gói thầu không tiến hành sơ tuyển), bao gồm: (a) Kinh nghiệm thực hiện các gói thầu tương tự tại Việt Nam và ở nước ngoài; kinh nghiệm

hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh chính; (b) Năng lực sản xuất và kinh doanh; cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ cán bộ chuyên môn; (c) Năng lực tài chính; tổng tài sản; tổng nợ phải trả; vốn lưu động, doanh thu, lợi nhuận và các chỉ tiêu khác.

Các tiêu chuẩn quy định tại khoản này được sử dụng tiêu chí "đạt", "không đạt" để đánh giá. Nhà thầu "đạt" cả ba nội dung nêu tại các điểm a, điểm b và điểm c khoản này thì được đánh giá là đáp ứng yêu cầu về năng lực và kinh nghiệm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

- Tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật bao gồm: (a) Khả năng đáp ứng các yêu cầu về số lượng, chất lượng và tính năng kỹ thuật hàng hoá nêu trong hồ sơ mời thầu; (b) Đặc tính kinh tế, kỹ thuật của hàng hoá, tiêu chuẩn sản xuất và các nội dung khác; (c) Tính hợp lý và hiệu quả kinh tế của các giải pháp kỹ thuật, biện pháp tổ chức cung cấp hàng hoá; (d) Khả năng lắp đặt thiết bị và năng lực cán bộ kỹ thuật; (đ) Mức độ đáp ứng về bảo hành; (e) Khả năng thích ứng về mặt địa lý; (g) Tác động đối với môi trường và biện pháp giải quyết; (h) Khả năng cung cấp tài chính (nếu có yêu cầu); (i) Các yếu tố khác về Điều kiện thương mại, tài chính, thời gian thực hiện, đào tạo chuyển giao công nghệ (nếu có).

Như vậy, quy định của Việt Nam về tiêu chuẩn đánh giá cũng đã được xem xét trên cơ sở quy định của thông lệ quốc tế. Ngoài ra Luật đấu thầu Việt Nam còn bổ sung các tiêu chí mới cho phù hợp như: tính hiệu quả kinh tế, mức độ phù hợp với môi trường, kinh nghiệm gói thầu tương tự tại Việt Nam…

Quy chế đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng hóa - 11

g) Hợp đồng

Vấn đề hợp đồng gắn liền trực tiếp với kết quả lựa chọn nhà thầu và là cơ sở cho việc thực hiện cũng như thanh toán. Những quy định về hợp đồng trong Quy chế đấu thầu hiện hành đã được xem xét, điều chỉnh và được quy định điều chỉnh và được quy định chi tiết, linh hoạt hơn trong Luật Đấu thầu. Theo đó, có bốn hình thức hợp đồng là trọn gói, theo đơn giá, theo thời gian

và theo tỷ lệ phần trăm. Một hợp đồng cho một gói thầu có thể chỉ là một hình thức, nhưng cũng có thể bao gồm nhiều hình thức hợp đồng khác nhau.

Quy định này sẽ giúp tháo gỡ nhiều tình huống trong đấu thầu hiện nay mà áp dụng chỉ theo một loại hợp đồng trọn gói hay đơn giá đều không phù hợp. Đồng thời, trong luật quy định (Điều 58) giá trị hợp đồng và các điều kiện cụ thể về thanh toán được ghi trong hợp đồng là cơ sở để chủ đầu tư thanh toán cho nhà thầu. Hy vọng với điều này những khó khăn, tranh luận, phiền hà trong thanh toán hợp đồng sẽ dần được khắc phục.

Bên cạnh đó, quy định ở Điều 57 cho phép được điều chỉnh hợp đồng trong những trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách về thuế, tiền lương, có sự thay đổi tăng giảm khối lượng, số lượng trong khi thực hiện hợp đồng, nhưng không do lỗi của nhà thầu. Khi giá nhiên liệu, vật tư, thiết bị trong hợp đồng do nhà nước kiểm soát có biến động lớn thì báo cáo người có thẩm quyền xem xét, quyết định. Các nội dung quy định về hợp đồng trong Luật đấu thầu sẽ giúp khắc phục các quy định cứng nhắc trong Quy chế Đấu thầu, song vẫn bảo đảm trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng và phù hợp với bản chất của từng công việc thuộc hợp đồng.


2.3. SO SÁNH VỚI QUY TRÌNH GIÁM SÁT QUẢN LÝ CỦA CÁC NHÀ TÀI TRỢ WB, ADB, SIDA VỚI VIỆT NAM‌

2.3.1. Trình tự tổ chức đấu thầu theo quy định Việt Nam

(Xem Phụ lục 1)

2.3.2. So sánh quy định về quản lý giám sát, kiểm soát

a) Về hệ thống pháp luật

Cơ sở pháp lý là điều kiện quan trọng để cho hoạt động đấu thầu được thực hiện nghiêm túc. Làm cơ sở đảm bảo tính công khai, minh bạch và cạnh tranh trong hoạt động đấu thầu. Trong đấu thầu, chủ yếu nhà nước tham gia dưới tư cách là bên mua. Vậy để cho hoạt động này có hiệu quả cao, Nhà

nước cần phải ban hành đầy đủ các quy định về đấu thầu như: Luật, pháp lệnh, quy chế, nghị định, chỉ thị, thông tư và các văn bản hướng dẫn đấu thầu. Hệ thống các văn bản hướng dẫn cần đảm bảo tính khách quan, thống nhất và ổn đinh. Chúng không chỉ phù hợp với văn bản của các ngành khác có liên quan, mà trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, chúng còn phải phù hợp với luật pháp quốc tế.

Hiện nay với tinh thần tiếp thu có chọn lọc, trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm hay về ban hành luật pháp liên quan tới đấu thầu của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển và kinh nghiệm về quy định, hướng dẫn đấu thầu của các tổ chức tài chính, nhà tài trợ quốc tế, tốc độ ban hành văn bản pháp luật về quản lý đấu thầu ở Việt Nam diễn ra khá nhanh. Trung bình 2-3 năm có sự sửa đổi lớn và liên tục có các văn bản hướng dẫn, chỉnh sửa quy định về đấu thầu để chúng ngày càng phù hợp và phát huy được vai trò của pháp luật với tư các là công cụ quản lý của nhà nước (xem phần 2.1.1 Hệ thống văn bản pháp luật quy định về đấu thầu quốc tế của Việt Nam)

Hiện nay, Việt Nam đã có Luật đấu thầu và chính thức có hiệu lực từ 1/4/2006. Trong thời gian chờ nghị định hướng dẫn áp dụng luật này, các hoạt động đấu thầu của Việt Nam vẫn chủ yếu áp dụng các văn bản, quy chế đấu thầu trước khi có Luật đấu thầu 2005.

Việc ban hành Luật đấu thầu 2005 đã tạo ra cơ sở pháp lý vững trắc, có tính cưỡng chế cao, mang tính ổn định trong mọi hoạt động đấu thầu, đảm bảo được mục tiêu tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, thỏa mãn và phù hợp với luật quốc tế.

b) Về phân cấp quản lý

Trong công tác đấu thầu, Nhà nước đóng vai trò vừa là người quản lý vừa là người thực hiện chính. Một mặt nhà nước quy định, ban hành các quy phạm pháp luật, mặt khác lại chính Nhà nước là chủ đầu tư trong hầu hết các dự án có hoạt động mua sắm đấu thầu lớn. Sự tham gia quản lý hoạt động đấu

thầu là yêu cầu cấp thiết đối với Nhà nước. Để hoạt động đấu thầu có hiệu quả, Nhà nước phải thực hiện biện pháp quản lý. Đó là việc phân cấp quản lý cho từng cơ quan tương ứng với trách nhiệm rõ ràng.

Trách nhiệm và quyền hạn của Chính phủ là thống nhất quản lý nhà nước về đấu thầu trong phạm vi cả nước, trong đó Thủ tướng Chính phủ hiện trách nhiệm và quyền hạn theo khoản 2 Điều 67Luật đấu thầu 2005 gồm:

- Chỉ đạo công tác thanh tra, giải quyết các kiến nghị trong đấu thầu.

- Quy định cơ quan, tổ chức thẩm định, phê duyệt nội dung đấu thầu;

- Quyết định nội dung đấu thầu cho dự án theo Nghị quyết Quốc hội;

Trách nhiệm và quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo Điều 68 Luật đấu thầu 2005 gồm:

- Chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý nhà nước về đấu thầu;

- Thẩm định kế hoạch đấu thầu, kết quả thầu thuộc thẩm quyền;

- Quản lý tờ báo về đấu thầu, trang thông tin điện tử về đấu thầu;

- Giải quyết theo thẩm quyền các kiến nghị trong đấu thầu;

- Chủ trì, phối hợp các cơ quan kiểm tra, thanh tra về đấu thầu.

Trách nhiệm và quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý đấu thầu trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình. Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm và quyền hạn sau đây:

- Thực hiện quản lý công tác đấu thầu;

- Tổ chức các hoạt động đào tạo công tác đấu thầu;

- Tổng kết và đánh giá về tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu;

- Kiểm tra, thanh tra về đấu thầu;

- Xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu;

- Trường hợp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp là người có thẩm quyền thì còn phải thực hiện trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.

Quyền và nghĩa vụ của chủ đầu tư: Theo quy định tại Điều 61 Luật đấu thầu thì chủ đầu tư có quyền và nghĩa vụ sau:

- Quyết định nội dung liên quan đến công việc sơ tuyển nhà thầu;

- Phê duyệt danh sách các nhà thầu tham gia đấu thầu;

- Thành lập tổ chuyên gia đấu thầu; lựa chọn một tổ chức tư vấn hoặc một tổ chức đấu thầu chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật để thay mình làm bên mời thầu;

- Phê duyệt danh sách nhà thầu đạt yêu cầu về mặt kỹ thuật, xếp hạng nhà thầu; kết quả chỉ định thầu đối với các trường hợp quy định của pháp luật;

- Chịu trách nhiệm việc đưa ra yêu cầu đối với gói thầu chỉ định thầu;

- Chịu trách nhiệm nội dung hợp đồng, ký kết hợp đồng với nhà thầu;

- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về quá trình lựa chọn nhà thầu;

- Bồi thường thiệt hại cho các bên liên quan nếu thiệt hại đó do lỗi của mình gây ra theo quy định của pháp luật;

- Cung cấp các thông tin cho tờ báo về đấu thầu;

- Giải quyết kiến nghị trong đấu thầu;

- Bảo mật các tài liệu về đấu thầu theo quy định của lLuật này.

Quyền và nghĩa vụ của bên mời thầu: Trong nhiều trường hợp quyền và nghĩa vụ Bên mời thầu tương tự với chủ đầu tư. Theo quy định tại Điều 62 Luật đấu thầu 2005 gồm các nội dung quản lý sau:

- Chuẩn bị đấu thầu, tổ chức đấu thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu theo quy định của luật này;

- Yêu cầu nhà thầu làm rõ hồ sơ dự thầu khi đánh giá hồ sơ dự thầu;

- Tổng hợp quá trình lựa chọn nhà thầu và báo cáo chủ đầu tư về kết quả sơ tuyển, kết quả lựa chọn nhà thầu;

- Thương thảo, hoàn thiện hợp đồng trên cơ sở được duyệt;

- Chuẩn bị nội dung hợp đồng để chủ đầu tư ký kết hợp đồng;

- Bảo đảm trung thực, khách quan, công bằng trong thầu;

- Bồi thường thiệt hại cho các bên liên quan nếu thiệt hại đó do lỗi của mình gây ra theo quy định của pháp luật;

- Cung cấp các thông tin cho tờ báo về đấu thầu và trang thông tin điện tử về đấu thầu;

- Giải quyết kiến nghị trong đấu thầu;

- Bảo mật các tài liệu về đấu thầu theo quy định của luật pháp.

Trong trường hợp Bên mời thầu là chủ đầu tư thì ngoài các quyền và nghĩa vụ quy định như trên còn phải tuân thủ các quy định như quyền và nghĩa vụ của Chủ đầu tư.

Để thấy rõ hơn về việc phân cấp quản lý, sơ đồ hệ thống quản lý nhà nước về đấu thầu (xem Phụ lục 2).

Việc phân cấp quản lý như trên, cùng với việc quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn, đã thể hiện đúng chức năng và vai trò của từng cấp quản lý trong hoạt động đấu thầu. Qua đó phát huy cao độ tính tự chủ của các cấp quản lý, đồng thời không bỏ mất vai trò vĩ mô của Nhà nước trong việc ổn định trật tự xã hội, quản lý toàn bộ nền kinh tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nhà nước cũng đã coi trọng đối tượng quản lý của mình trong luật pháp về đấu thầu, đó là các Nhà thầu, nhằm tạo điều kiện cho họ có cơ hội cạnh tranh lành mạnh trong một môi trường pháp lý bình đẳng.

Thực tế công tác phân cấp quản lý đấu thầu ở mỗi dự án là khác nhau, điều này được chứng minh thông qua mô hình quản lý dự án y tế nông thôn của Bộ Y tế (xem Phụ lục 3).

c) Về hướng dẫn thực hiện chính sách, pháp luật

Đây là một nội dung quan trong trong pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc hướng dẫn các chính sách pháp luật về đấu thầu giúp luật của nhà nước ban hành phải đi vào đời sống xã hội, kịp thời ngăn chặn những hành vi tiêu cực và phát huy hiệu quả của phương pháp mua sắm thông qua đấu thầu.

Đối tượng hướng dẫn, tuyên truyền thực hiện các chính sách của Nhà nước phần lớn là các công chức. Họ là người nắm giữ, sử dụng nguồn vốn đầu tư quan trọng của Nhà nước để thực hiện mua sắm đấu thầu. Giá trị mua sắm thường rất lớn vì đó là nguồn vốn chủ yếu của Nhà nước dùng để phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội công cộng. Với nhận thức của từng người là khác nhau, nên khi thực hiện các quy định pháp luật về đấu thầu cũng theo nhiều cách khác nhau. Do đó, Nhà nước cần phải hướng dẫn, yêu cầu họ thực hiện theo đúng ý trí của mình đã thể hiện trong pháp luật.

Ngoài ra, việc tuyên truyền pháp luật đấu thầu còn góp phần chống lại những hành vi tiêu cực thường xảy ra trong đấu thầu nhờ vào sự phát hiện, tố cáo của quần chúng nhân dân trong quá trình thưc hiện mua sắm.

d) Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, xử lý vi phạm và báo cáo

Đây là chức năng quan trọng của Nhà nước để kìp thời phát hiện và uốn nắn các hoạt động đấu thầu sao cho đúng quy định của pháp luật. Đặc biệt là những hành vi như tham nhũng, thông đồng đấu thầu, gian lận thương mại, do mặt trái của cơ chế thị trường gây nên.

Các cơ quan chức năng của Nhà nước như: công an kinh tế, thanh tra, có đủ khả năng để kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiến nại, xử lý vi phạm trong đấu thầu. Để đảm bảo tính khách quan đồng thời không làm giảm tiến độ thực hiện dự án, các cơ quan này cần có sự hoạt động độc lâp, chí công, vô tư, kiên quyết đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật đấu thầu.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/12/2023