Mô Hình Cdn Được Cung Cấp Bởi Viettel Idc


Hình 5 6 Mô hình CDN được cung cấp bởi Viettel IDC Nguồn viettelidc comvn 5 4 1 2 Chia 1


Hình 5.6. Mô hình CDN được cung cấp bởi Viettel IDC


Nguồn: viettelidc.comvn


5.4.1.2. Chia sẻ tệp ngang hàng

Mạng ngang hàng P2P là nhóm các máy tính, mỗi nhóm hoạt động như một điểm để chia sẻ các tập tin. Thay vì có một máy chủ trung tâm để hoạt động như một ổ đĩa chia sẻ, mỗi máy tính hoạt động như máy chủ cho các tập tin lưu trữ trên nó.

Mục tiêu chính của mạng ngang hàng P2P là chia sẻ tài nguyên và giúp máy tính, thiết bị hoạt động cộng tác, cung cấp dịch vụ cụ thể hoặc thực hiện các tác vụ cụ thể. P2P được sử dụng để chia sẻ tất cả các loại tài nguyên máy tính như sức mạnh xử lý, băng thông mạng hoặc không gian lưu trữ đĩa. Tuy nhiên, trường hợp sử dụng phổ biến nhất cho các mạng ngang hàng là chia sẻ tệp trên internet (vì nó cho phép các máy tính được kết nối với nhau nhận tệp và gửi tệp đồng thời).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 170 trang tài liệu này.

Chia sẻ tập tin có thể đạt được theo một số cách. Các phương thức lưu trữ, truyền tải và phân tán phổ biến bao gồm chia sẻ thủ công sử


dụng phương tiện lưu động, máy chủ tập trung trên mạng máy tính, tài liệu siêu liên kết dựa trên World Wide Web và sử dụng mạng ngang hàng. Ví dụ về mô hình mạng ngang hàng, các máy trạm có vai trò vừa là máy chủ vừa là máy khách (xem hình 5.7).



Hình 5 7 Mô hình mạng ngang hàng Nguồn wowza com Lợi ích sử dụng P2P Giảm sử 2

Hình 5.7. Mô hình mạng ngang hàng


Nguồn: wowza.com


Lợi ích sử dụng P2P:

- Giảm sử dụng băng thông. Tất cả các máy khi tham gia mạng lưới đều có thể đóng góp thông tin bao gồm băng thông, dữ liệu và cả khả năng tính toán. Càng nhiều máy tham gia thì lượng thông tin cung cấp cho người dùng càng nhiều.

- Nhờ tính chất phân tán giúp các mạng khác vẫn hoạt động tốt khi một máy trong mạng lưới gặp sự cố. Các giải pháp P2P cũng cung cấp một quy trình làm việc phi tập trung, bổ sung một mức độ dự phòng mới và loại bỏ các ràng buộc và tắc nghẽn truyền thống của mô hình phân phối truyền phát tập trung. Khi xảy ra lỗi kết nối giữa máy khách và máy ngang hàng, nội dung vẫn có thể được truy cập trên nhiều máy ngang hàng, máy chủ bộ đệm hoặc CDN.


Hạn chế sử dụng P2P:

- Các yêu cầu dịch vụ có thể đáp ứng tùy biến nên kết quả nhận được là khác nhau.

- Yêu cầu gửi đi có thể không nhận được kết quả trả về vì không có gì đảm bảo một máy có thể đáp ứng được yêu cầu đó.

- Các tài nguyên sẽ biến mất vì node cung cấp tài nguyên bị ngắt kết nối bất cứ lúc nào.

5.4.1.3. Nền tảng phân phối nội dung

Thuật ngữ nền tảng phân phối nội dung CDP (hoặc) được đưa ra bởi kiến trúc sư phần mềm của Feed. Us John Welborn. CDP là một phần mềm dưới dạng dịch vụ nội dung (SaaS), tương tự như hệ thống quản lý nội dung (CMS), là dịch vụ sao chép các trang của website sang máy chủ phân tán về mặt địa lý, khi một trang web được yêu cầu, nó tự động xác định và phục vụ nội dung trang từ máy chủ gần nhất (xem Hình 5.8).

CDP sử dụng mã phần mềm nhúng để phân phối nội dung web. Thay vì cài đặt phần mềm trên các máy khách, CDP cung cấp nội dung thông qua các đoạn mã được nhúng, thường là thông qua tiện ích JavaScript, tiện ích Flash hoặc Ajax phía máy chủ.


Hình 5 8 Mô hình hoạt động của CDP Nguồn antidote net CDP không phải là mạng 3

Hình 5.8. Mô hình hoạt động của CDP


Nguồn: antidote.net


CDP không phải là mạng phân phối nội dung CDN, được sử dụng cho phương tiện web lớn và không phụ thuộc vào mã phần mềm nhúng. CDP được sử dụng cho tất cả các loại nội dung web, ngay cả nội dung văn bản. Ngoài ra, một nền tảng phân phối nội dung có thể được sử dụng để nhập nhiều loại nội dung được cung cấp vào một vị trí trung tâm và sau đó được tái sử dụng cho việc cung cấp web.

Thay vì thay thế hoặc sửa đổi, CDP bổ sung các ứng dụng và môi trường tác giả đang tạo ra, lưu trữ và quản lý nội dung. Vì các ứng dụng này thường được thiết kế cho một mục đích cụ thể (CRM, quản trị nội dung web, wiki, file servers…), chúng không phù hợp để cung cấp nhiên liệu cho các kênh khác bằng cách điều chỉnh nội dung cho điểm cuối đích. CDP giải quyết nhu cầu này và sự phức tạp của việc cung cấp các quy trình và ứng dụng khác với nội dung có nguồn gốc từ nhiều nguồn:

- Nó tạo ra một điểm truy cập duy nhất, một nơi để thống nhất tất cả thông tin cần thiết để giải quyết các thách thức kinh doanh cụ thể trên toàn doanh nghiệp.

- Nó mang lại sự nhất quán cho các định dạng nội dung và siêu dữ liệu.

- Nó áp dụng các quy tắc bảo mật thích ứng với các tình huống phân phối và hồ sơ của người dùng, được kiểm soát theo cách thức trung tâm.

- Nó cho phép phổ biến thông qua nhiều kênh.

5.4.1.4. Hệ thống quản lý nội dung

Hệ thống quản lý nội dung (CMS) là hệ quản trị nội dung của website, có chức năng điều khiển tất cả hoạt động về nội dung, thông tin của website.

Hệ thống quản lý nội dung có các chức năng sau:

- Tạo, lưu trữ các nội dung trên trang web

- Chỉnh sửa, thêm, bớt nội dung


- Chuyển và chia sẻ nội dung

- Quản lí và phân quyền người dùng

Các hệ thống này thường hỗ trợ nhiều người dùng trong môi trường hợp tác, cho phép thực hiện quản lý tài liệu với các phong cách quản trị và quy trình công việc khác nhau. Nội dung web có thể bao gồm văn bản và đồ họa nhúng, ảnh, video, âm thanh, bản đồ và mã chương trình (như đối với các ứng dụng) hiển thị nội dung hoặc tương tác với người dùng. Về bản chất, CMS hỗ trợ tách nội dung và trình bày. Một số CMS phổ biến hiện nay:

- CMS WordPress là một loại CMS thông dụng nhất hiện nay. WordPress được xây dựng trên hệ thống ngôn ngữ PHP và được sử dụng phổ biến trong các lĩnh vực bất động sản, thương mại điện tử quy mô nhỏ, hay các website bán hàng chuyên một ngành hàng. WordPress còn được đính kèm với các gói dịch vụ hosting gọi là Hosting WordPress. Đây là những hosting được tối ưu chỉ dành cho hệ quản trị nội dung CMS WordPress. Khi sử dụng các gói hosting này, website WordPress sẽ hoạt động tối ưu nhất.

- Joomla là CMS phổ biến thứ hai sau WordPress nhờ các ưu điểm như dễ sử dụng, không đòi hỏi người dùng phải có trình độ chuyên môn cao. Ngày nay, Joomla đang bị mất dần ưu thế nhưng tính thuận tiện của CMS này là hoàn toàn không thể phủ nhận.

- CMS Opencart là CMS được xây dựng trên nền tảng ngôn ngữ PHP. CMS Opencart sử dụng mã nguồn mở. Bên cạnh đó, nó còn là sự lựa chọn tối ưu cho các hệ thống bán hàng online.

- CMS Drupal được xây dựng trên hệ thống ngôn ngữ PHP và là sự lựa chọn lý tưởng cho các website có quy mô trung bình hoặc lớn. Bởi sự linh hoạt, khả năng tùy chỉnh tốt cũng như hệ thống plug-in đa dạng của nó. Thông thường, các website trên lĩnh vực tin tức, thương mại điện tử, các website theo yêu cầu,… sẽ sử dụng Drupal trong việc tạo lập và quản lý website của mình.


- CMS Magento là CMS tương tự như WordPress, Drupal, Magento cũng sử dụng ngôn ngữ PHP làm nền tảng và lưu trữ dữ liệu tại MySQL. Ưu điểm của CMS này là sử dụng mã nguồn mở, do đó người dùng có thể tự chọn giao diện hay cấu hình tùy theo ý thích.

5.4.2. Phân phối một số sản phẩm nội dung

5.4.2.1. Phân phối âm nhạc và phim ảnh

Nhiều chương trình truyền hình mạng, phim ảnh và nội dung video khác hiện có sẵn trực tuyến, từ chủ sở hữu nội dung trực tiếp hoặc từ các dịch vụ của bên thứ ba. YouTube, Netflix, Hulu, Vudu, Amazon Prime Video, DirecTV, SlingTV và các dịch vụ video dựa trên Internet khác cho phép chủ sở hữu nội dung cho phép người dùng truy cập nội dung của họ trên máy tính, điện thoại thông minh, máy tính bảng hoặc TV thông minh.

Ví dụ về nhà phân phối âm nhạc trực tuyến Napster (xem hộp 5.10).



Hộp 5.10 Napster: Sự trỗi dậy, sụp đổ và hồi sinh


Napster là tên được đặt cho ba dịch vụ trực tuyến tập trung vào âm nhạc. Nó được thành lập như một dịch vụ Internet chia sẻ ngang hàng (P2P) tiên phong, nhấn mạnh việc chia sẻ các tệp âm thanh kỹ thuật số, điển hình là các bài hát âm thanh, được mã hóa ở định dạng MP3.

Các tệp MP3 nhỏ hơn nhiều so với các tệp thay thế trước đó và cho phép các cá nhân tải xuống một bài hát tiêu chuẩn trong thời gian ngắn hơn nhiều. Mạng Napster không yêu cầu sử dụng trình duyệt Web tiêu chuẩn như Internet Explorer. Máy khách người dùng cũng không thực sự tải xuống các tệp MP3 từ máy chủ Napster. Thay vào đó, Napster chỉ chia sẻ thư viện, hoặc danh sách các bài hát, sau đó kích hoạt môi trường chia sẻ tệp ngang hàng trong đó người dùng cá nhân tải xuống nhạc từ máy của nhau. Sự phát triển của Napster Naplet với hơn 60 triệu người đã đăng ký vào cuối năm 2002 và có tới 1,3 triệu người sử dụng dịch vụ này cùng lúc. Nó được cho là cộng đồng phát triển nhanh hơn bất kỳ cộng đồng nào khác trong lịch sử.

Do thách thức tiềm tàng đối với các nguồn thu của họ, Hiệp hội Công nghiệp thu âm Mỹ (RIAA) và năm hãng thu âm lớn đã kiện Napster với lý do vi phạm bản quyền.



Napster đã bị tòa án phán quyết thua kiện. Do đó, chia sẻ tập tin miễn phí không còn được cho phép, Napster đã buộc phải tính phí khách hàng sử dụng dịch vụ chia sẻ tập tin của mình. Người dùng các dịch vụ miễn phí không hài lòng với khoản phí và từ bỏ dịch vụ, khiến Napster bị phá sản.

Napster đã được mua lại bởi Roxio Inc., doanh nghiệp đã hồi sinh Napster nhờ dịch vụ thu phí. Năm 2004, Napster đã giới thiệu chia sẻ tập tin miễn phí, thỏa thuận với một số trường đại học để giảm giá sâu cho sinh viên. Trong lần tái sinh thứ hai, Napster đã trở thành một cửa hàng âm nhạc trực tuyến (tải nhạc dựa trên đăng ký) cho đến khi được Rhapsody mua lại từ Best Buy vào ngày 1 tháng 12 năm 2011.

Dịch vụ đăng ký nhạc cung cấp quyền truy cập không giới hạn vào nhạc chất lượng CD và các tính năng khám phá, cộng đồng và lập trình bổ sung trong môi trường không có quảng cáo và người đăng ký Napster To Go được chuyển nhạc không giới hạn sang máy nghe nhạc MP3 tương thích.

Napster cũng cung cấp dịch vụ Pay Per Song cho phép người dùng tải xuống và ghi nhạc với giá 0,99 $ mỗi bản nhạc. Phương thức thanh toán bao gồm thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ và PayPal.

Napster đã bị thách thức bởi một liên doanh mới, TwistFrog, ra mắt vào tháng 9 năm 2007, đã ký kết cả Tập đoàn Universal và EMI cho dịch vụ tải nhạc được hỗ trợ quảng cáo. Tuy nhiên, TwistFrog đã đóng cửa vào tháng 3 năm 2009.

Tính đến năm 2009, Napster cung cấp một bộ sưu tập hơn 7 triệu bài hát trong các bản tải nhạc hợp pháp. Người đăng ký có quyền truy cập không giới hạn vào toàn bộ bộ sưu tập nhạc trực tuyến của họ. Người dùng có thể tìm kiếm và tải nhạc dựa trên tiêu đề bài hát, nghệ sĩ, album hoặc thể loại.

Với những khó khăn mà những doanh nghiệp có thương hiệu lớn như Napster đang gặp phải là vấn đề lợi nhuận, giải quyết các mối lo ngại về việc vi phạm bản quyền nếu muốn tồn tại và phát triển lâu dài.

Nguồn: theguardian.com (truy cập tháng 8 năm 2014)


5.4.2.2. Phân phối sách điện tử

Sách điện tử (e-books) là phiên bản kỹ thuật số của sách in và được phân phối qua Internet, có thể có hình thức của một phiên bản duy nhất hoặc tồn tại dưới nhiều phiên bản định dạng. Những tập tin này có thể được đọc trên thiết bị đọc sách riêng biệt (ebook reader) hoặc đọc trên nhiều thiết bị điện tử như máy tính bảng, máy tính cá nhân, điện thoại thông minh và cả trên một số điện thoại di động…


Phân phối sách điện tử có nhiều hình thức. Nhà phân phối xây dựng cơ sở dữ liệu e-books (sách đọc, sách nói, sách hình, sách tích hợp), cho phép khách hàng thuê bao đọc trực tuyến, tải xuống thiết bị cá nhân sử dụng theo thời gian gói thuê bao, hoặc lưu trữ trên máy đọc lâu dài.

Giá trị phân phối e-books ngày càng tăng trên toàn cầu. Hãng nghiên cứu Juniper Research đã công bố, năm 2011 doanh số bán e-books toàn cầu là 1,5 tỷ $ và năm 2016 đã đạt tới 9,7 tỷ $. Theo Báo cáo e- books toàn cầu năm 2014, ngành công nghiệp sách là một bộ phận quan trọng của ngành công nghiệp nội dung và giải trí toàn cầu với giá trị ước tính là 150 tỷ $, trong đó doanh số e-books chiếm khoảng 5-6% và cao nhất so với các ngành công nghiệp giải trí khác. Hiện giá trị e-books chiếm khoảng 5% đến 10% giá trị ngành công nghiệp xuất bản sách tùy từng quốc gia.

5.4.2.3. Phân phối trò chơi trực tuyến

Khả năng mới của phân phối kỹ thuật số cũng kích thích việc tạo ra các loại trò chơi (game) của các nhà sản xuất trò chơi video rất nhỏ như Nhà phát triển trò chơi độc lập và Modder (ví dụ Garry's Mod), trước đây không khả thi về mặt thương mại. Những năm sau năm 2004 đã chứng kiến sự gia tăng của nhiều dịch vụ phân phối kỹ thuật số trên PC, như Amazon Digital Services, Desura, GameStop, Games cho Windows - Live, Impulse, Steam, Origin, Direct2Drive, GOG.com và GamersGate.

Game qua Internet được phân thành bốn loại: Game thông thường (Casual Game), Game xã hội (Social Game), Game điều khiển (Console Game) và Game mobile.

Theo ước tính của eMarketer trong năm 2013, doanh số các Console Game (cả phần cứng và phần mềm) đạt khoảng 15 tỷ $ và doanh số đăng ký, hàng hóa ảo và dịch vụ trên các nền tảng trò chơi xã hội, di động và trò chơi thông thường vào khoảng 5 tỷ $. Một trong những game di động được chơi rộng rãi nhất là Angry Birds, Angry Birds đã được phát hành vào năm 2009 trên hệ điều hành iOS của Apple vào tháng 12 năm 2009, trò chơi này đã được tải về khoảng 12 triệu lượt từ App

Xem tất cả 170 trang.

Ngày đăng: 19/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí