Phạm Vi Hoạt Động Trải Rộng Trên Nhiều Quốc Gia

Một khi sự lựa chọn giữa tài trợ bằng vốn vay hay bằng vốn của doanh nghiệp, tài trợ bằng vốn vay ngắn hạn hay vốn vay dài hạn, hoặc lựa chọn giữa lợi nhuận để lại và lợi nhuận phân chia đã được quyết định thì bước tiếp theo nhà quản trị còn phải quyết định làm thế nào để huy động được các nguồn tài trợ đó. Nên sử dụng lợi nhuận tích lũy hay nên kêu gọi thêm vốn từ cổ đông, nên vay ngân hàng hay nên huy động vốn bằng cách phát hành các công cụ nợ, nên phát hành trái phiếu hay thương phiếu,… Đó là những quyết định liên quan đến tài trợ trong hoạt động của doanh nghiệp.

Quyết định tài trợ bao gồm:

+ Lựa chọn nguồn tài trợ

Nhà quản trị tài chính phải là người quyết định lựa chọn nguồn tài trợ cho một dự án của doanh nghiệp. Đó có thể là nguồn vốn vay hay nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể huy động nguồn vốn chủ sở một cách đơn giản và ít tốn kém nhưng thường khó có thể huy động với khối lượng lớn. Nguồn vốn vay là giải pháp cổ điển mà các doanh nghiệp đều nghĩ tới. Nếu doanh nghiệp đủ điều kiện để vay vốn, nó có thể huy động được nguồn vốn đủ lớn đầu tư cho dự án. Nhưng nguồn vốn vay có nhược điểm là dễ gây ra gánh nặng nợ cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp thường huy động nguồn vốn vay từ ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng hay phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán. Để tăng nguồn vốn chủ sở hữu cho các hoạt động của mình, cách đơn giản nhất là doanh nghiệp tăng phần vốn đóng góp của các cổ đông. Số vốn này thậm chí không gây ra chi phí cho doanh nghiệp nhưng phương pháp này có hạn chế là không tạo được nguồn vốn lớn. Cho nên doanh nghiệp thường huy động vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu ra thị trường chứng khoán bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi (đối với những doanh nghiệp được phép phát hành cổ phiếu). Tuy nhiên để lựa chọn được nguồn tài trợ thích hợp nhất cho dự án thì doanh nghiệp lại phải dựa vào chi phí từng nguồn vốn.

+ Xác định chi phí vốn

Chi phí vốn vay được xác định bằng công thức: K’d = Kd (1-T)

Trong đó, Kd là khoản vốn vay còn T là khoản lãi vay mà doanh nghiệp phải trả.

Chi phí vốn huy động bằng cách phát hành cổ phiếu được chia ra cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.

● Chi phí vốn cổ phiếu ưu đãi:

Kp = Dp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Po

Trong đó Dp là cổ tức, Po là giá thị trường của cổ phiếu.

Quản trị tài chính công ty đa quốc gia - 3

● Chi phí vốn cổ phiếu thường:

* Xác định theo mô hình định giá tài sản vốn (CAPM): Ke = Krf + ß (KM – Krf)

Trong đó Krf là tỷ lệ lợi tức phi rủi ro, ß là hệ số biến động của doanh nghiệp.

* Xác định theo phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF):


Ke =

D1 + g

Po

Trong đó D1 là cổ tức năm 1, g là mức tăng trưởng cổ tức.

Khi đã xác định được chi phí của từng nguồn vốn, nhà quản trị sẽ dựa trên cơ sở đó để lựa chọn nguồn vốn thích hợp nhất cho một dự án.

+ Xây dựng cơ cấu vốn tối ưu

Một cấu trúc vốn tối ưu được định nghĩa là một cấu trúc vốn trong đó chi phí sử dụng vốn bình quân là nhỏ nhất và giá trị doanh nghiệp đạt lớn nhất.

Chi phí vốn bình quân của doanh nghiệp: WACC = Ki . wi

Trong đó Ki là chi phí của từng nguồn vốn và wi tỷ trọng vốn của từng loại. Vấn đề cốt lõi của cấu trúc vốn tối ưu là khi doanh nghiệp vay nợ,

doanh nghiệp tiết kiệm được thuế nhờ lãi vay, bản chất của vấn đề này là lãi suất mà doanh nghiệp trả cho nợ được miễn thuế (thuế được đánh sau lãi vay). Khi doanh nghiệp vay nợ thì một phần lợi nhuận được sử dụng để trả lãi vay, như vậy thu nhập chịu thuế giảm đi, hay nói cách khác là thuế mà doanh nghiệp phải trả cũng giảm đi. Một cách đơn giản ta có thể hình dung là giá trị của doanh nghiệp khi vay nợ sẽ bằng giá trị của doanh nghiệp không vay nợ cộng với hiện giá của khoản tiết kiệm được nhờ lãi vay.

2.3.3 Quyết định tài chính ngắn hạn

Loại quyết định thứ ba trong quản trị tài chính là quyết định tài chính ngắn hạn hay còn gọi là quyết định về quản trị tài sản. Một khi tài sản đã được mua sắm và nguồn tài trợ đã được sử dụng để mua sắm tài sản thì vấn đề quan trọng là quản lý sao cho tài sản được sử dụng một cách hiệu quả và hữu ích. Giám đốc tài chính chịu trách nhiệm về việc quản lý và sử dụng tài sản có hiệu quả, đặc biệt đối với tài sản lưu động là loại tài sản dễ gây ra thất thoát và lãng phí khi sử dụng.

+ Quản trị tiền mặt

Quản trị tiền mặt đề cập tới việc quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân hàng. Sự quản lý này liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại tài sản gần với tiền mặt như các loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao. Các loại tài sản tài chính gần như tiền mặt giữ vai trò như một “miếng đệm” cho tiền mặt: Số dư thanh khoản tiền mặt có thể được đầu tư dễ dàng vào các loại chứng khoán thanh khoản cao, đồng thời chúng cũng có thể được bán rất nhanh để thỏa mãn những nhu cầu cấp bách về tiền mặt.

Tỷ lệ sinh lời trực tiếp trên tiền mặt rất thấp, trong khi đó sức mua của tiền tệ luôn có khuynh hướng giảm do chịu ảnh hưởng của lạm phát. Bởi vậy có thể nói tỷ lệ sinh lời thực của tiền giấy và tiền gửi ngân hàng có tỷ lệ âm.

Động cơ chủ yếu của việc nắm giữ tiền mặt là để làm thông suốt quá trình tạo ra các giao dịch kinh doanh. Bởi nếu sử dụng một loại tài sản khác có thanh khoản thấp có thể làm các chi phí giao dịch cao, mất nhiều thời gian hơn đối với một giao dịch kinh doanh thông thường.

Quản trị tiền mặt bao gồm các yếu tố: a- Tăng tốc độ thu hồi

b- Giảm tốc độ chi tiêu

c- Dự báo chính xác nhu cầu tiền mặt d- Xác định nhu cầu tiền mặt

e- Đầu tư thích hợp những khoản tiền nhàn rỗi

+ Quản trị khoản phải thu

Trong kinh doanh, một doanh nghiệp mua chịu và bán chịu là công việc thường ngày và hóa đơn cũ được thanh toán thì hóa đơn mới cũng được tạo ra. Tuy nhiên độ lớn của các khoản phải thu của một doanh nghiệp thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào tốc độ thu hồi nợ cũ và tạo ra nợ mới, cũng như sự tác động của những điều kiện kinh tế chung nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Hoạt động quản trị tiền mặt của một doanh nghiệp nhằm vào những yếu tố mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được tạo thành chính sách tín dụng của một doanh nghiệp. Chính sách tín dụng của một doanh nghiệp liên quan đến những yếu tố sau:

a- Tiêu chuẩn tín dụng là nguyên tắc chỉ đạo định rõ sức mạnh tài chính tối thiểu và có thể chấp nhận được của những khách hàng mua chịu. Theo nguyên tắc này, những khách hàng nào có sức mạnh tài chính hay vị thế tín dụng thấp hơn những tiêu chuẩn có thể chấp nhận được thì sẽ bị từ chối cấp tín dụng.

b- Chiết khấu tiền mặt là phần tiền chiết khấu đối với những giao dịch mua hàng bằng tiền. Chiết khấu tạo ra những khuyến khích thanh toán sớm các hóa đơn mua hàng.

15

c- Thời hạn bán chịu là độ dài thời gian mà các khoản tín dụng được phép kéo dài.

d- Chính sách thu tiền là cách thức xử lý những khoản tín dụng thương mại quá hạn.

+ Quản trị hàng tồn kho

Hàng tồn kho gồm có ba loại: nguyên liệu thô, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Hàng tồn kho có tác dụng duy trì khả năng hoạt động thông suốt của dây chuyền sản xuất và các hoạt động phân phối, bên cạnh đó nó còn có tác dụng ngăn chặn những bất trắc trong sản xuất như sự chậm trễ ngoài dự kiến trong vận chuyển, giao hàng. Quản trị hàng tồn kho nhằm mục đích tối thiểu hóa chi phí tồn kho. Đó là các loại chi phí:

a- Chi phí tồn trữ: những chi phí liên quan đến việc tồn trữ hàng hóa: chi phí bốc xếp hàng hóa, bảo hiểm hàng tồn kho, chi phí sử dụng vốn, trả lãi vay cho nguồn kinh phí vay mượn để mua hàng dự trữ...

b- Chi phi đặt hàng: chi phí quản lý, giao dịch và vận chuyển hàng hóa. Chi phí đặt hàng cho mỗi lần đặt hàng thường rất ổn định, không phụ thuộc số lượng hàng được mua. Cho nên chi phí đặt hàng thường tỷ lệ thuận với số lần đặt hàng trong năm. Khi khối lượng hàng của mỗi lần đặt hàng nhỏ, thì số lần đặt hàng tăng và chi phí đặt hàng cao. Khi khối lượng mỗi lần đặt hàng lớn, số lần đặt hàng giảm và chi phí đặt hàng cũng thấp hơn.‌

c- Chi phí cơ hội: Nếu một doanh nghiệp không thực hiện được đơn đặt hàng khi có nhu cầu, công ty sẽ bị đình đốn sản xuất và có thể không kịp giao hàng cho khách hàng. Sự thiệt hại do để lỡ cơ hội này được coi là chi phí cơ hội.

II. Tổng quan về công ty đa quốc gia

1. Khái niệm

Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (Multinational Corporation) là công ty tham gia vào quá trình sản xuất và bán sản phẩm hoặc

dịch vụ ở nhiều nước. Ban đầu nó gồm một công ty mẹ đặt tại chính quốc và có ít nhất năm hoặc sáu công ty con ở nước ngoài, đặc biệt có mức độ hợp tác hỗ trợ lẫn nhau cao và mang tính chiến lược giữa các công ty con của nó. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia. Các công ty này có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hoá. Một số công ty đa quốc gia có tới 100 công ty con ở nước ngoài trên khắp thế giới. Liên hiệp quốc dự đoán rằng có ít nhất 35.000 công ty con trên thế giới có thể xem là

công ty đa quốc gia.2

Các công ty đa quốc gia có thể xếp vào 3 nhóm lớn theo cấu trúc các phương tiện sản xuất:

● Công ty đa quốc gia "theo chiều ngang" sản xuất các sản phẩm cùng loại hoặc tương tự ở các quốc gia khác nhau (ví dụ: McDonalds).

● Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc" có các cơ sở sản xuất ở một số nước nào đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở một số nước khác (ví dụ: Adidas).

● Công ty đa quốc gia "nhiều chiều" có các cơ sở sản xuất ở các nước khác nhau mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc (ví dụ: Microsoft).

2. Đặc điểm của công ty đa quốc gia

2.1 Phạm vi hoạt động trải rộng trên nhiều quốc gia

Dù theo đuổi chiến lược thâm nhập nước ngoài hay mở rộng toàn cầu, đặc trưng của một công ty đa quốc gia là quy mô và phạm vi phân bổ tài sản của nó. Sự tồn tại thực sự của các công ty đa quốc gia là dựa vào khả năng dễ di chuyển của một số nhân tố sản xuất nhất định giữa các nước. Thay vì phải giới hạn việc tìm kiếm các địa điểm xây dựng nhà máy trong nước, một công


2 Báo cáo kinh tế thường niên của Liên Hiệp Quốc năm 2005

ty đa quốc gia đặt vấn đề: ở đâu trên thế giới là nơi mà chúng ta nên đặt nhà máy? Tương tự như vậy, bộ phận quản lý marketing tìm kiếm thị trường quốc tế chứ không phải trong nước để thâm nhập và bộ phận quản lý tài chính không giới hạn việc tìm kiếm vốn hoặc cơ hội đầu tư đối với bất kỳ một thị trường tài chính quốc gia nào. Vì vậy nhân tố quan trọng để phân biệt công ty đa quốc gia đó là hoạt động tìm kiếm bên ngoài, thực hiện và hợp tác sản xuất, marketing, R&D và các cơ hội tài trợ trên cơ sở toàn cầu chứ không phải trong nước. Ví dụ, dự án về chất siêu dẫn của IBM được khởi xướng ở Thụy Sỹ bởi một nhà khoa học Đức và một nhà khoa học Thụy Điển, những người cùng nhận một giải thưởng Nobel vật lý về công trình nghiên cứu dự án này. Một ví dụ khác, vốn được huy động ở Luân Đôn trên thị trường đôla châu Âu, có thể được sử dụng bởi một nhà máy dược phẩm đặt tại Thụy Sỹ để tài trợ việc mua thiết bị của Đức bởi một công ty con ở Braxin. Một con búp bê Barbie có thể được làm ở 10 nước – thiết kế tại California, với những bộ phận và quần áo từ Nhật, Trung Quốc, Hồng Kông, Malaysia, Indonexia, Hàn Quốc, Ý, Đài Loan, được lắp ráp tại Mexico và được bán trên 144 nước.

Những nhân tố cần thiết đối với việc hợp nhất hoạt động toàn cầu là linh hoạt và tốc độ. Đặc biệt, tốc độ đã trở thành một vũ khí cạnh tranh lợi hại trong cuộc chiến giành giật thị phần quốc tế. Khả năng phát triển, sản xuất và phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ nhanh chóng cho phép các doanh nghiệp chiếm được khách hàng, những người cần sự đáp ứng linh hoạt, nhanh chóng và đổi mới thường xuyên.

2.2 Các công ty đa quốc gia khác nhau có những động lực phát triển khác nhau

Bởi vì các lợi thế về chi phí có thể thực hiện từ việc sản xuất ở nước ngoài hoặc các cơ hội thu nhập có thể có từ nhu cầu của thị trường nước ngoài, tiềm năng phát triển trở nên lớn hơn đối với các công ty quan tâm đến hoạt động kinh doanh quốc tế. Những đầu tư quốc tế phát triển mạnh mẽ qua thời gian, chúng được thúc đẩy bởi sự tổng hợp của các nhân tố: Sự dỡ bỏ

hoặc giảm bớt những rào cản đối với đầu tư nước ngoài; các chi phí vận tải và thông tin giảm mạnh; các thị trường vốn quốc tế và nội địa hoạt động tự do hơn, trong đó các công ty có thể huy động những khoản vốn khổng lồ, những rủi ro tiền tệ và các rủi ro khác có thể bảo hiểm được. Tuy nhiên không phải tất cả các công ty đa quốc gia đều có chung một câu trả lời cho câu hỏi tại sao chúng lại tấn công ra thị trường quốc tế. Trên thực tế chúng tìm kiếm những cơ hội rất khác nhau.

- Tìm kiếm vật liệu thô

Những người tìm kiếm vật liệu thô là những công ty đa quốc gia và những tổ chức kinh doanh quốc tế đầu tiên. Đó là những công ty Anh, Hà Lan và Đông Ấn Độ, Pháp, công ty Bay Trading Hudson và Union Miniere HautKatanga – lúc đầu chúng phát triển dưới sự che chở bảo vệ của các đế chế thực dân Anh, Hà Lan, Pháp và Bỉ. Mục tiêu của chúng là khai thác các vật liệu thô có thể tìm thấy ở nước ngoài. Những bản sao của những công ty này trong thời đại hiện đại là những công ty khai mỏ, dầu lửa đa quốc gia. Họ là những người đầu tiên tiến hành đầu tư mạnh mẽ ra nước ngoài, bắt đầu từ những năm đầu của thế kỷ 20. Vì vậy, những công ty dầu lửa lớn như British Petroleum và Standar Oil, đã đi đến những nơi mà những con khủng long đã chết (những công ty được bảo trợ của những đế chế thực dân), là những công ty đa quốc gia thực sự đầu tiên. Những công ty khai thác kim loại như International Nickel. Anaconda Copper, và Kennecott Copper cũng là những công ty sớm đầu tư ra nước ngoài.

- Tìm kiếm thị trường

Người tìm kiếm thị trường là công ty đa quốc gia hiện đại, nó ra nước ngoài để sản xuất và bán hàng ở thị trường nước ngoài. Ví dụ như IBM, Volks- wagen và Unilever. Tương tự như vậy, các công ty sản xuất những mặt hàng nổi tiếng như Nestlé, Levi Strauss, MacDonald’s, P&G, Coca-Cola đã và đang kinh doanh nước ngoài, nơi mà chúng có được doanh số và thu nhập lớn.

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 09/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí