Quản trị tài chính công ty đa quốc gia - 5

Trước hết hãy xem xét ở nước A không cho phép các MNC có trụ sở ở nơi khác được niêm yết cổ phiếu của họ ở Sở giao dịch địa phương. Trong điều kiện này, một MNC sẽ quyết định vay vốn thông qua việc phát hành trái phiếu hoặc vay ngân hàng thay vì phát hành cổ phiếu ở nước này. Bởi vì buộc phải sử dụng tài trợ bằng nợ ở đây, MNC có thể phân tán kết cấu tư bản mục tiêu của nó trong đó bao gồm việc tăng tổng chi phí tư bản của nó. MNC có thể bù đắp việc tập trung vào nợ này bằng cách dùng tài trợ toàn bộ bằng vốn chủ sở hữu ở một số nước chủ nhà khác mà cho phép cổ phiếu của công ty được yết tại Sở giao dịch địa phương.

Xét một ví dụ thứ hai, ở đó nước B cho phép MNC phát hành cổ phiếu và niêm yết cổ phiếu của nó tại Sở giao dịch địa phương. Cũng giả thiết rằng đề án được thực hiện ở nước đó sẽ không sinh ra luồng tiền mặt thuần trong 5 năm. Trong trường hợp này, tài trợ bằng vốn chủ sở hữu có thể là phù hợp hơn. MNC có thể phát hành cổ phiếu và bằng cách trả lợi tức cổ phần thấp hoặc bằng 0, nó có thể tránh được bất kỳ luồng tiền mặt ra lớn nào trong 5 năm tới. Nó có thể bù đắp sự tập trung vào vốn chủ sở hữu này bằng cách sử dụng tài trợ bằng nợ nhiều hơn ở một số nước chủ nhà khác.

Ví dụ thứ 3, hãy xét một MNC mong muốn đầu tư vào nước C đang trải qua những rối ren về chính trị. Việc sử dụng các món vay ngân hàng địa phương sẽ là phù hợp nhất bởi vì ngân hàng địa phương có thể bảo vệ các hoạt động của MNC ở nước này khỏi những tác động bởi bất kỳ điều kiện chính trị nào. Nếu các ngân hàng địa phương là những nhà cho vay, họ sẽ có lợi trong việc đảm bảo rằng hoạt động của MNC là có lãi thích hợp để hoàn trả khoản vay của nó. Các ví dụ này phản ánh kết cấu tư bản của MNC ở mỗi nước có thể phân tán như thế nào từ kết cấu tư bản mục tiêu toàn cầu được thiết lập bởi MNC.

Nguồn vốn lý tưởng đối với tất cả các nước sẽ không nhất thiết được tập hợp để thiết lập kết cấu tư bản của một công ty đa quốc gia. Tuy nhiên sự

pha trộn của công ty mẹ giữa tài trợ bằng nợ và bằng vốn chủ sở hữu trong chính nước nó (ở đó có sự cơ động để dùng bất kỳ dạng nào) có thể được điều chỉnh để đạt được kết cấu vốn tối ưu trên phạm vi toàn cầu.

- Quyết định huy động vốn dài hạn

Các công ty đa quốc gia thường sử dụng các nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho các dự án dài hạn. Họ có quyền tiếp cận các nguồn vốn trong nước và ngoài nước. Các MNC phải cân nhắc tất cả các dạng có thể của tài trợ trước khi đưa ra quyết định cuối cùng của họ.

Bởi vì trái phiếu được ghi bằng ngoại tệ đôi khi có lãi suất thấp hơn nên các công ty Mỹ thường xem xét việc phát hành trái phiếu ở những nước được ghi bằng những đồng tiền của nước đó. Chẳng hạn, Hewlett Packard, IBM, Pepsi Co và Walt Disney gần đây phát hành trái phiếu ghi bằng đồng Yên Nhật để lợi dụng lãi suất đồng Yên thấp. Bởi vì chi phí tài trợ thực tế đối với một công ty Mỹ phát hành trái phiếu ghi bằng ngoại tệ chịu tác động bởi giá trị của đồng tiền ấy so với Đôla trong kỳ tài trợ. Cho nên không có một sự đảm bảo rằng trái phiếu ghi bằng ngoại tệ sẽ tốt hơn trái phiếu ghi bằng đồng Đôla Mỹ. Công ty vay tiền phải thanh toán coupon bằng đồng tiền ghi trên trái phiếu. Nếu đồng tiền này tăng giá so với đồng tiền bản địa của công ty, số tiền cần để thanh toán coupon sẽ tăng lên. Vì lý do này, một công ty không phải bao giờ cũng ghi nợ bằng một đồng tiền biểu hiện lãi suất thấp.

Để đưa ra quyết định tài trợ dài hạn, MNC phải xác định lượng tiền đang cần, dự báo giá tại đó nó có thể phát hành trái phiếu và dự báo giá trị tỷ giá định kỳ đối với đồng tiền ghi trên trái phiếu. Các thông tin này có thể được sử dụng để xác định chi phí tài trợ bằng trái phiếu, nó có thể được so sánh với chi phí tài trợ công ty phải gánh chịu khi dùng đồng tiền bản địa của nó. Cuối cùng sự không chắc chắn của chi phí tài trợ thực tế phải gánh chịu từ tài trợ nước ngoài cũng phải được xem xét khi đưa ra các quyết định tài trợ.

2.3 Quyết định tài chính ngắn hạn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

- Quản trị tiền mặt quốc tế

Thuật ngữ quản trị tiền mặt có thể được định nghĩa một cách chung nhất là cách thức tối ưu hóa luồng tiền mặt và đầu tư các khoản tiền mặt dư thừa. Từ khía cạnh quốc tế, quản trị tiền mặt là rất phức tạp bởi hệ thống luật khác nhau giữa các nước liên quan đến việc chuyển tiền mặt qua biên giới. Hơn nữa sự dao động tỷ giá có thể tác động đến giá trị của tiền mặt chuyển qua biên giới.

Quản trị tài chính công ty đa quốc gia - 5

Các nhà quản trị tiền tệ quốc tế cố gắng đạt được các mục tiêu quản trị quỹ tiền mặt quốc nội trên cơ sở toàn cầu: (1) đảm bảo quỹ tiền mặt của công ty nằm trong tầm kiểm soát một cách nhanh chóng và hiệu quả; và (2) đạt được khả năng hòa vốn và sử dụng các nguồn quỹ này một cách tối ưu nhất. Để thực hiện mục tiêu đầu tiên đòi hỏi phải thiết lập các hệ thống dự báo, báo cáo chính xác và kịp thời, cải tiến hoạt động thu chi tiền mặt, và giảm chi phí luân chuyển quỹ giữa các chi nhánh. Mục tiêu thứ hai đạt được bằng cách tối thiểu hóa số dư tiền mặt cần thiết, chuẩn bị tiền sẵn sàng đúng lúc và đúng nơi khi cần, đồng thời tăng doanh thu đã điều chỉnh rủi ro đối với các quỹ có thể đầu tư.

Quản lý tiền mặt trong các công ty đa quốc gia có thể được chia thành hai chức năng: tối đa hóa sự vận động luồng tiền mặt và đầu tư tiền mặt dư thừa.

Luồng tiền mặt vào có thể được tối ưu hóa bằng các cách:

+ Đẩy nhanh hơn luồng tiền vào

Đây là mục tiêu đầu tiên trong quản trị tiền mặt của các công ty đa quốc gia, bởi vì luồng tiền mặt vào nhận được càng nhanh thì chúng càng nhanh có thể được đầu tư hoặc sử dụng cho các mục đích khác. Một công ty có thể thiết lập những hộp thư bưu điện được đánh số theo đó các khách hàng được chỉ dẫn để gửi các khoản thanh toán khi giao dịch với công ty. Kỹ thuật này giúp

giảm thời gian gửi qua bưu điện. Việc tiến hành kiểm tra khoản tiền vào ở mỗi hộp thường được sự trợ giúp của một ngân hàng trên cơ sở hàng ngày.

+ Tối thiểu hóa chi phí chuyển đổi tiền tệ

Một kỹ thuật khác để tối đa hóa sự vận động của luồng tiền mặt là hệ thống “netting” có thể được áp dụng với những nỗ lực kết hợp của các công ty con hoặc bởi nhóm quản trị tiền mặt tập trung. Kỹ thuật này tối đa hóa luồng tiền mặt bằng cách giảm chi phí hành chính và chi phí nghiệp vụ nảy sinh từ việc chuyển đổi các đồng tiền.

Một hệ thống netting đa phương bao gồm nhiều nghiệp vụ phức tạp đan xen nhau giữa công ty mẹ và một số công ty con. Đối với hầu hết các MNC, một hệ thống như thế sẽ là cần thiết để giảm một cách có hiệu quả các chi phí hành chính và chi phí chuyển đổi đồng tiền. Hệ thống này thường được tập trung hóa do đó tất cả các thông tin cần thiết đều được kết hợp. Từ các thông tin về luồng tiền mặt đưa vào, tình trạng luồng tiền mặt đối với mỗi đơn vị và sự ăn khớp nhau vào cuối mỗi kỳ có thể biết được. Nhóm tập trung hóa có thể duy trì hàng tồn kho của các đồng tiền khác nhau do vậy việc chuyển đổi tiền tệ vào cuối kỳ thanh toán có thể được hoàn thành không đòi hỏi các chi phí nghiệp vụ đáng kể.

+ Tối thiểu hóa thuế đối với luồng tiền mặt

Để tối đa hơn nữa luồng tiền mặt, MNC phải xem xét đến vấn đề thuế đánh vào luồng tiền mặt của nó. Nếu chẳng hạn, Chính phủ nước chủ nhà của một chi nhánh nhất định áp đặt một mức thuế thu nhập cao đối với thu nhập của chi nhánh chuyển về công ty mẹ, công ty mẹ của MNC có thể hướng dẫn chi nhánh kìm chế tạm thời việc chuyển thu nhập và thay vào đó là tái đầu tư vào nước chủ nhà. Một cách tiếp cận khác là MNC có thể hướng dẫn chi nhánh thiết lập một bộ phận nghiên cứu và phát triển mà nó sẽ mang lại lợi ích cho các chi nhánh ở nơi khác. Mục đích chính đằng sau chiến lược này là

để tìm kiếm cách sử dụng có hiệu quả nguồn ngân quỹ ở nước ngoài nếu quỹ không thể chuyển được cho công ty mẹ mà không chịu thuế cao.

- Quản lý khoản phải thu

Các công ty cung cấp tín dụng thương mại cho khách hàng trong nước và quốc tế, bởi vì họ hi vọng việc đầu tư vào các khoản phải thu này có thể sinh lời hoặc mở rộng doanh số bán hoặc duy trì được các thương vụ nếu không có thể bị rơi vào tay các đối thủ cạnh tranh. Hơn thế, một số công ty cũng thu được lợi nhuận từ phí tài trợ qua việc tính vào hàng bán với điều kiện tín dụng.

Sự cần thiết phải cân nhắc kỹ lưỡng các điều kiện tín dụng đặc biệt quan trọng đối với những nước có tỷ lệ lạm phát cao. Động cơ khuyến khích khách hàng trì hoãn việc trả tiền nhằm quyết toán số nợ của họ với giá trị tiền thấp hơn trong tương lai là rất lớn. Hơn nữa, các tiêu chuẩn tín dụng ở nước ngoài thường rộng rãi hơn ở trong nước. Để duy trì tính cạnh tranh, các công ty đa quốc gia thường nới lỏng tiêu chuẩn tín dụng của họ. Hệ thống bù trừ ở nhiều công ty có xu hướng nhằm mục đích tăng cường được các thương vụ hơn là mức tăng đầu tư vào các khoản phải thu. Nỗ lực nhằm quản trị tốt hơn các khoản phải thu ở nước ngoài sẽ không có hiệu quả nếu không có nỗ lực phối hợp từ bộ phận tài chính và bộ phận marketing. Ở nhiều nước, bộ phận marketing chú trọng đến việc bán hàng, còn bộ phận tài chính quan tâm đến việc đẩy nhanh tốc độ các dòng lưu chuyển tiền tệ. Một cách để giải quyết mâu thuẫn này là đào tạo lực lượng bán hàng nhận thức được tín dụng và việc thu tiền ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty như thế nào.

Hai quyết định tín dụng then chốt đối với một công ty khi xuất khẩu hàng hóa là mức tín dụng được gia hạn và đồng tiền nào được ghi vào hóa đơn bán hàng theo điều khoản tín dụng. Các điều kiện tín dụng càng dễ dàng thì càng có thể thực hiện được nhiều thương vụ nhưng sự hào phóng này không phải lúc nào cũng là tốt nhất. Cùng với thu nhập cao hơn là rủi ro vỡ

nợ, chi phí lãi suất tăng đối với các khoản đầu tư tăng lên vào các khoản phải thu và mức giảm giá trị tính theo đô la của các khoản phải thu theo đồng tiền của người mua. Những chi phí phụ trội này có thể được bù đắp một phần nếu các điều kiện tín dụng dễ dàng cho phép công ty có khả năng tăng giá bán.

- Quản lý hàng tồn kho

Hàng tồn kho dưới dạng nguyên liệu thô, bán thành phẩm hay thành phẩm được dự trữ để tạo thuận lợi cho quá trình sản xuất bằng việc đảm bảo nguồn cung cấp sẵn có khi cần và cho phép tỷ lệ sản xuất cao hơn đảm bảo rằng hàng hóa có sẵn để giao hàng vào lúc bán.

Các công ty đa quốc gia với nhiều hoạt động ở nước ngoài đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề về quản trị hàng tồn kho,. Ví dụ, các công ty đa quốc gia nhận thấy khó khăn hơn trong việc kiểm soát hàng tồn kho và thực hiện các mục tiêu về tốc độ chu chuyển hàng tồn kho trong các hoạt động ở nước ngoài so với trong nước. Có nhiều nguyên nhân: thời gian vận chuyển dài và có thể thay đổi nếu chuyên chở bằng đường biển, quá trình xử lý thủ tục hải quan kéo dài, các cuộc đình công ở cảng, các loại kiểm soát nhập khẩu, thuế quan cao hơn, tình hình gián đoạn nguồn cung cấp và biến động của giá trị tiền tệ.

Quản lý hàng tồn kho thường quan tâm nhiều đến địa đểm sản xuất và kiểm soát tồn kho. Nhiều công ty đã chuyển sản xuất trong nước ra nước ngoài để tận dụng lợi thế về lao động rẻ và cơ hội được miễn giảm thuế, các khoản vay lãi suất thấp và các ưu đãi khác của Chính phủ nước sở tại. Tuy nhiên một số hãng sản xuất đã nhận thấy rằng chi phí sản xuất thấp không phải là tất cả. Sự chậm trễ trong chuyên chở đường biển quốc tế, gián đoạn nguồn cung cấp tiềm tàng, các hãng sản xuất ở nước ngoài đặc biệt thường duy trì khối lượng lớn hơn về sản xuất dở dang và dự trữ thành phẩm so với các doanh nghiệp trong nước. Kết quả là chi phí dự trữ cao hơn.

Ở nhiều nước đang phát triển, các hợp đồng kỳ hạn về ngoại hối bị hạn chế hoặc không tồn tại. Hơn nữa nhiều giới hạn thường ngăn cản việc chuyển tiền tự do, khiến cho việc chuyển đổi các quỹ dư thành ngoại tệ mạnh trở nên khó khăn, hoặc là không thể thực hiện được. Một trong những cách thức để tự bảo hiểm là mua hàng trước, đặc biệt đối với các mặt hàng nhập khẩu.

- Tài trợ ngắn hạn

Yêu cầu về vốn lưu động của các công ty đa quốc gia đặt ra một vấn đề quyết định và hết sức phức tạp. Sự phức tạp này là do có nhiều lựa chọn tài trợ sẵn có khác nhau đối với một MNC. Các công ty mẹ của MNC và các chi nhánh của chúng sử dụng các phương pháp khác nhau để có nguồn ngân quỹ ngắn hạn nhằm thỏa mãn sự cần thiết về tính lỏng của nó. Một phương pháp thường được sử dụng trong những năm gần đây bởi các MNC lớn là phát hành trái phiếu hoặc chứng khoán nợ không có bảo đảm. Một số các MNC coi chúng như là một dạng tài trợ trung hạn. Các ngân hàng thương mại bảo lãnh các chứng khoán của MNC và một số ngân hàng thương mại mua chúng nhằm đầu tư chứng khoán cho riêng họ. Một nguồn phổ biến khác của quỹ tài trợ ngắn hạn cho các MNC là vay trực tiếp từ ngân hàng. Hầu hết các MNC duy trì các hợp đồng tín dụng với các ngân hàng khác nhau trên thế giới. Chẳng hạn, Westing House có thỏa thuận tín dụng với hơn 100 ngân hàng trong và ngoài nước.

Nhưng trước khi một công ty mẹ hoặc chi nhánh của MNC tìm kiếm các nguồn tài trợ từ bên ngoài, nó thường cân nhắc liệu có thể có nguồn tài trợ nào từ bên trong hay không. Tức là nó kiểm tra lại tình trạng luồng tiền mặt của các chi nhánh khác. Nếu chẳng hạn, có một khoản thu nhập cao tại một chi nhánh nào đó và một phần của quỹ đã được đầu tư một cách đơn giản vào các chứng khoán thị trường tiền tệ, công ty mẹ có thể yêu cầu các quỹ này từ các chi nhánh. Điều này là có thể trong những thời kỳ khi chi phí cho việc nhận các nguồn ngân quỹ từ nước của công ty mẹ là tương đối cao.

Các công ty mẹ của các MNC cũng có thể cố gắng để tài trợ bởi các công ty con thông qua việc tăng giá của chúng đối với các vật liệu chúng gửi cho các công ty con. Trong trường hợp này vốn giao cho công ty mẹ từ các công ty con sẽ không được trả lại. Phương pháp hỗ trợ công ty mẹ này đôi khi có thể khả thi hơn các phương pháp đã đề cập ở trên nếu nó tránh được những hạn chế hoặc áp đặt bởi chính phủ các nước. Nhưng phương pháp này tự nó có những hạn chế hoặc bị giới hạn bởi Chính phủ chủ nhà.

2.4 Quản trị rủi ro tài chính

Các công ty chỉ hoạt động ở thị trường trong nước thường không phải chú ý nhiều đến các rủi ro tài chính, đặc biệt là rủi ro ngoại hối. Nhưng đây lại là vấn đề hết sức quan trọng đối với quản trị tài chính trong các công ty đa quốc gia do đặc thù về sự đa dạng trong các giao dịch cũng như trong việc sử dụng nhiều đồng tiền khác nhau. Quản trị rủi ro tài chính bao gồm rất nhiều lĩnh vực: rủi ro ngoại hối, rủi ro lãi suất, rủi ro chính trị - kinh tế đến từ các quốc gia mà công ty đặt chi nhánh. Ở đây tác giả chỉ đề cập đến rủi ro ngoại hối, là loại rủi ro đặc trưng và có ảnh hưởng rất lớn đến các công ty đa quốc gia. Khái niệm chung về rủi ro ngoại hối đề cập tới mức độ mà một công ty bị ảnh hưởng bởi những thay đổi của tỷ giá trao đổi. Trong rủi ro ngoại hối người ta phân biệt ba loại rủi ro cơ bản là rủi ro kế toán, rủi ro giao dịch và rủi ro kinh doanh. Khóa luận này chỉ nghiên cứu rủi ro giao dịch và rủi ro kinh doanh, những tác động của nó tới hoạt động của một công ty đa quốc gia và cách thức để quản lý những rủi ro đó.

Rủi ro giao dịch do các giao dịch tạo ra các dòng ngoại tệ vào hoặc ra trong tương lai được ràng buộc trong các hợp đồng. Khi các tỷ giá thay đổi giữa hiện tại và thời điểm mà những giao dịch này được quyết toán, dẫn tới giá trị của các dòng ngoại tệ có liên quan thay đổi, tạo ra các khoản lãi hoặc lỗ ngoại tệ. Rủi ro kinh doanh phản ánh mức độ mà dao động của tiền tệ có thể làm thay đổi các dòng tiền trong tương lai của một công ty, đó là các khoản

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/09/2022