Nội Dung Quản Trị Rủi Ro Trong Kinh Doanh Của Nhtm Theo Hiệp Ước Basel Ii


Hiệp ước Basel I gồm 3 phần: Phần 1 nói về các yếu tố tạo thành vốn; Phần 2 đề cập đến hệ thống các tỷ trọng rủi ro và Phần 3 bàn về tỷ lệ vốn mục tiêu. Theo Basel I, vốn của ngân hàng (vốn tự có) sẽ bao gồm vốn gốc (hay vốn cổ phần cơ bản, vốn cấp 1) và vốn bổ sung (vốn cấp 2).

Hai thành phần chính của vốn cấp 1 là vốn cổ phần và các quỹ dự trữ công khai. Vốn cổ phần bao gồm vốn cổ phần thông thường đã phát hành và được thanh toán đủ và cổ phần ưu đãi vĩnh viễn không tích lũy. Vốn cấp 2 bao gồm các thành phần: dự trữ không công khai, dự trữ định giá lại, dự phòng chung/dự trữ chung cho tổn thất cho vay, các công cụ nợ/vốn lưỡng tính, và nợ thứ cấp có thời hạn.

Để khuyến khích các ngân hàng không ngừng tăng cường quy mô vốn cấp 1, không quá phụ thuộc vào vốn cấp 2, Ủy ban yêu cầu tối thiểu 50% cơ sở vốn của ngân hàng phải là các thành phần chủ yếu (tức là vốn cấp 1, bao gồm vốn cổ phần và quỹ dự trữ công khai trích lập từ lợi nhuận sau thuế). Những thành phần khác của vốn (vốn bổ sung) sẽ được đưa vào vốn cấp 2 với mức tối đa không quá mức vốn cấp 1. Những thành phần vốn bổ sung có thể được tính hoặc không được tính vào vốn cấp 2 tùy theo quyết định của cơ quan thẩm quyền của từng nước căn cứ vào các quy định pháp luật của nước đó.

Theo quy định của Ủy ban Giám sát ngân hàng, khi tính toán tỷ lệ vốn theo tỷ trọng rủi ro, ngân hàng phải loại trừ những khoản sau:

- Trừ khỏi vốn cấp 1: uy tín thương mại


- Trừ khỏi tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2: các khoản đầu tư vào các công ty con hoạt động trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng không thực hiện hạch toán tổng hợp (để tránh tình trạng cùng một nguồn vốn được sử dụng nhiều lần tại những công ty con khác nhau của cùng một tập đoàn ngân hàng).

Các giới hạn cần tuân thủ khi tính toán vốn của một ngân hàng:


(i) Tổng giá trị các thành phần vốn cấp 2 (vốn bổ sung) sẽ bị hạn chế ở mức tối đa là 100% giá trị các thành phần vốn cấp 1;

(ii) Nợ thứ cấp sẽ bị giới hạn ở mức tối đa không quá 50% tổng giá trị các thành phần vốn cấp 1;


(iii) Nếu khoản dự phòng chung/dự trữ chung cho tổn thất cho vay có bao gồm cả số tiền phản ánh giá trị tài sản có thấp hơn hoặc phản ánh những tổn thất tiềm ẩn nhưng chưa được xác định rõ trên bảng tổng kết tài sản thì khoản dự phòng hoặc dự trữ này sẽ bị giới hạn ở mức tối đa không quá 1,25%;

(iv) Dự trữ định giá lại tài sản dưới hình thức thu nhập dự kiến hoặc chứng khoán chưa bán sẽ phải khấu trừ đi 55%.

Trong khuôn khổ Hiệp ước Basel I, các tỷ trọng rủi ro được xây dựng với phương châm càng đơn giản càng tốt. Cụ thể, Basel I chỉ quy định 5 loại tỷ trọng rủi ro là 0, 10, 20, 50 và 100%, đồng thời đưa ra những tiêu chí tổng quát để làm căn cứ phân loại tài sản có vào các nhóm rủi ro thích hợp.

So với phương pháp so sánh đơn giản trước đây thì phương pháp sử dụng tỷ lệ rủi ro nêu tại Hiệp ước Basel I có những ưu điểm sau:

(i) Tạo ra một cơ sở công bằng hơn để so sánh trên bình diện quốc tế giữa các hệ thống ngân hàng khác nhau;

(ii) Cho phép tính đến các khoản mục rủi ro ngoại bảng khi đo lường mức độ đủ vốn của ngân hàng;

(iii) Không cản trở việc các ngân hàng giữ tài sản có tính lỏng cao hoặc các tài sản khác có mức độ rủi ro thấp.

Phần 3 của Hiệp ước Basel I đặt ra tỷ lệ tối thiểu giữa vốn so với tài sản có rủi ro mà các ngân hàng hoạt động quốc tế cần đạt được là 8% - tỷ lệ Cooke (trong đó phần vốn gốc phải chiếm ít nhất 4%). Công thức xác định như sau:

Tỷ lệ vốn tối thiểu (CAR) = Vốn bắt buộc/ Tài sản tính theo độ rủi ro gia

quyền.


Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền (RWA) = Tổng tài sản có nội bảng x Hệ

số rủi ro + Tổng tài sản ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro.


Theo đó: Ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.


1.2.2.2. Nội dung quản trị rủi ro trong kinh doanh của NHTM theo Hiệp ước Basel II

Do những hạn chế trong quá trình triển khai Basel I, tháng 6/2004, Ủy ban Basel chính thức ban hành Hiệp ước Basel II thay thế cho Hiệp ước Basel I. Hiệp ước Basel II đưa ra một loạt các phương án lựa chọn, cho phép các ngân hàng có quyền tự quyết rất lớn trong giám sát hoạt động. Ngoài nội dung về yêu cầu tỷ lệ vốn tối thiểu, Hiệp ước Basel II còn mở rộng thêm hai nội dung về thanh tra giám sát ngân hàng và công khai minh bạch thông tin. Hiệp ước Basel II được cấu trúc gồm 3 trụ cột: (1) Yêu cầu vốn tối thiểu, là sự mở rộng của các quy tắc chuẩn hoá đặt ra trong Hiệp ước 1988, (2) Quy trình rà soát giám sát tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn và quá trình đánh giá nội bộ, và (3) Áp dụng các nguyên tắc thị trường nhằm khuyến khích việc công khai thông tin cũng như thực hiện các thông lệ kinh doanh ngân hàng an toàn.

(i) Trụ cột thứ nhất: Yêu cầu vốn tối thiểu


Basel II yêu cầu các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp. Theo đó, Basel II đưa ra một tỷ lệ vốn, với tử số là vốn tự có của ngân hàng và mẫu số là tài sản có rủi ro (đo lường mức độ rủi ro trong hoạt động của ngân hàng). Tỷ lệ vốn tối thiểu theo quy định tại Basel II là 8%.

So với quy định về yêu cầu vốn tối thiểu tại Basel I, bản Hiệp ước mới chỉ thay đổi phương pháp xác định tài sản có rủi ro nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng đánh giá rủi ro của bản thân ngân hàng, qua đó làm cho tỷ lệ vốn tối thiểu trở nên có ý nghĩa hơn, phản ánh được chính xác hơn khả năng thanh toán của ngân hàng.

Bảng 1.1: Trọng số rủi ro theo loại tài sản


Trọng số rủi ro

Phân loại tài sản


0%

Tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng


Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài chính

20%

Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mô lớn

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.

Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 6



Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan Nhà nước

50%

Các khoản vay thế chấp nhà ở


100%

Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh nghiệp, các khoản nợ từ các nước kém phát triển, các khoản vay thế

chấp cổ phiếu, bất động sản,…

Nguồn: BIS 2004


Basel II đề cập đến 3 loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Ngoài rủi ro tín dụng và rủi ro thị trường đã được quy định tại bản Hiệp ước về vốn năm 1988, Basel II còn bổ sung thêm một loại rủi ro nữa là rủi ro tác nghiệp.

Đối với rủi ro thị trường, phương pháp tiếp cận tại bản Hiệp ước Basel II không có thay đổi gì so với Quy định bổ sung tháng 1 năm 1996.

Riêng đối với rủi ro tín dụng và rủi ro tác nghiệp, bản Hiệp ước mới đưa ra 3 phương án tính toán rủi ro tín dụng và 3 phương án tính toán rủi ro tác nghiệp khác nhau để các ngân hàng lựa chọn thực hiện phù hợp với mức độ phát triển hoạt động của bản thân ngân hàng nói riêng và với hạ tầng cơ sở nói chung.

(i.1) Đối với rủi ro tín dụng:


Bản Hiệp ước mới đưa ra 3 phương pháp tính toán rủi ro tín dụng (trích dẫn Basel Committee on Banking Supervision 2000):

- Phương pháp chuẩn hoá (Standardised);


- Phương pháp cơ sở dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ (IRB);


- Phương pháp nâng cao dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ (Advanced IRB).


(a). Phương pháp chuẩn hoá


Phương pháp chuẩn hoá đưa ra trong Basel II yêu cầu ngân hàng phải phân chia tài sản có của ngân hàng vào các nhóm rủi ro khác nhau, mỗi nhóm có một hệ số rủi ro cụ thể, tuỳ theo đặc điểm của từng khoản mục. So với quy định tại bản Hiệp ước về vốn năm 1998, phương pháp chuẩn hoá này có một số điểm mới sau:


Thứ nhất, kết quả đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín dụng độc lập được sử dụng để nâng cao mức độ chính xác khi xếp hạng rủi ro cho tài sản có. Cơ quan thanh tra của từng quốc gia sẽ căn cứ vào hướng dẫn của Uỷ ban để quyết định lựa chọn nguồn dữ liệu của tổ chức xếp hạng độc lập đủ tiêu chuẩn làm cơ sở phân loại tài sản có. Trong trường hợp không có kết quả xếp hạng của tổ chức xếp hạng độc lập thì một khoản mục tài sản có sẽ phải chịu hệ số rủi ro 100%.

Thứ hai, nợ quá hạn phải đưa vào nhóm có hệ số rủi ro 150%, trừ trường hợp ngân hàng đã lập dự phòng đầy đủ.

Thứ ba, mở rộng hơn nữa phạm vi các hình thức đảm bảo (tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh…) mà ngân hàng có thể được phép chấp nhận khi tính toán mức vốn tối thiểu theo yêu cầu. Đồng thời, bản Hiệp ước mới cũng đưa ra một số phương pháp khác nhau để xác định giá trị thị trường của công cụ được sử dụng làm đảm bảo, từ đó tính toán mức vốn có thể được khấu trừ.

Nhằm hỗ trợ ngân hàng và cơ quan thanh tra ở những nước chưa có đủ điều kiện áp dụng phương pháp chuẩn hoá trên đây, Uỷ ban cũng đưa ra “phương pháp chuẩn hoá đơn giản”, trong đó tập hợp tất cả những lựa chọn đơn giản nhất để tính toán tổng tài sản có rủi ro.

(b). Các phương pháp dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ (IRB)


Có hai phương pháp tính toán tổng tài sản có rủi ro dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ là phương pháp cơ sở và phương pháp nâng cao. Điểm khác biệt cơ bản giữa các phương pháp IRB và phương pháp chuẩn hóa là khi tính toán tỷ lệ vốn tối thiểu theo phương pháp IRB, ngân hàng được phép căn cứ vào kết quả đánh giá nội bộ của mình về các yếu tố rủi ro chủ yếu trong hoạt động. Tuy nhiên, ngân hàng cũng không được quyết định mọi cấu phần cần thiết để xác định yêu cầu vốn tối thiểu của mình. Thay vào đó, các hệ số rủi ro và mức vốn cần thiết sẽ được xác định trên cơ sở số liệu định tính do ngân hàng cung cấp và công thức tính toán do Uỷ ban Giám sát ngân hàng đưa ra. Phương pháp luận mới này phù hợp cho ngân hàng với nhiều quy mô khác nhau, nhiều cấu trúc doanh nghiệp khác nhau và danh mục rủi ro khác nhau.


Cơ sở lý thuyết của phương pháp IRB là dựa trên mô hình giả định một nhân tố rủi ro (mô hình ASRF) đối với rủi ro tín dụng. Trong đó, khả năng không trả được nợ vay của khách hàng có thể vì sự khác biệt giữa giá trị tài sản và giá trị danh nghĩa của khoản nợ vay. Giá trị tài sản của các doanh nghiệp sẽ là một biến thay đổi theo thời gian, chịu một phần tác động của các biến cố ngẫu nhiên. Khả năng vỡ nợ sẽ xuất hiện khi giá trị tài sản của người đi vay quá thấp so với khoản nợ.

Các phương pháp IRB đều dựa trên 4 yếu tố đầu vào mang tính định lượng:


Xác suất không trả được nợ (Probability of default – PD): đo lường xác suất người vay không thanh toán được nợ. Việc không trả được nợ theo quy định của Basel được hiểu là xảy ra một trong hai tình huống: hoặc các nghĩa vụ trả nợ không được thực hiện đầy đủ mà ngân hàng không có quyền truy đòi ngược, hoặc các khoản nợ đã quá hạn trên 90 ngày. Các khoản thấu chi sẽ được xem là quá hạn nếu khách hàng vi phạm hạn mức.

Tổn thất khi người vay không trả được nợ (Loss given default – LGD): đo lường tỷ lệ tài sản có bị tổn thất nếu xảy ra. Các ngân hàng phải ước tính phần LGD này cho các khoản phải đòi đối với mỗi doanh nghiệp, cơ quan chính phủ và các ngân hàng khác.

Trong phương pháp IRB cơ bản thì các khoản phải đòi đối với các công ty, cơ quan chính phủ và các ngân hàng không có tài sản đảm bảo sẽ được chỉ định giá trị LGD là 45%, nếu là các khoản phải đòi phụ đối với các tổ chức trên thì sẽ được chỉ định là 75%. Đối với các khoản phải đòi có tài sản đảm bảo là khoản phải thu, bất động sản thương mại (CRE) và bất động sản cư trú (RRE) và các tài sản đảm bảo khác thì được vận dụng như phương pháp chuẩn với các giá trị LGD tối thiểu mô tả trong Bảng 1.2 dưới đây.

Còn trong phương pháp IRB nâng cao thì việc ước tính LGD có thể phán ánh hiệu quả tác động giảm thiểu rủi ro của hoạt động bảo lãnh và các sản phẩm tín dụng phái sinh thông qua điều chỉnh PD hoặc LGD.



Loại tài sản đảm bảo


LGD tối thiểu


Mức độ đảm bảo tối thiểu yêu cầu đối với hoạt động

Mức độ đảm bảo yêu cầu vượt quá đối với LGD đầy

đủ

Tài sản tài chính đủ tiêu chuẩn


0%


0%


Chưa quy định

Khoản phải thu

35%

0%

125%

CRE/RRE

35%

30%

140%

Khoản cầm cố

khác


40%


30%


140%

Bảng 1.2: Giá trị LGD tối thiểu đối với tỷ trọng đảm bảo của các hoạt động chính


Nguồn: BIS 2004 Giá trị rủi ro khi người vay không trả được nợ (Exposure at default – EAD):

đo lường phần xử lý nợ (write-off) và dự phòng đặc biệt. Các công cụ và hệ số rủi ro được áp dụng giống như trong phương pháp chuẩn với một vài trường hợp ngoại lệ. Giá trị ròng trên bảng cân đối kế toán khi so sánh khoản vay với tiền gửi có cùng loại tiền và kỳ đáo hạn hoàn toàn khớp với nhau sẽ được xem xét giống như phương pháp chuẩn. Các khoản mục ngoài bảng cân đối kế toán ngoại trừ cam kết giao dịch hối đoái và chứng khoán phái sinh sẽ được tính toán bằng cách nhân với hệ số CCF. Có hai cách ước tính hệ số CCF này theo phương pháp cơ bản và phương pháp nâng cao.

Theo phương pháp cơ bản thì các loại công cụ và hệ số CCF áp dụng sẽ giống trong phương pháp chuẩn. Đối với hạn mức tín dụng thì áp dụng CCF 75%, với một số trường hợp đặc biệt như hạn mức có thể hủy ngang vô điều kiện hoặc tự động hủy khi đáo hạn thì có thể áp dụng CCF là 0%.

Theo phương pháp nâng cao, các ngân hàng tự ước tính giá trị CCF cho từng khoản mục ngoại trừ các khoản mục ấn định giá trị CCF là 100% trong phương pháp cơ bản. Riêng đối với các cam kết giao dịch hối đoái, lãi suất, vốn, và chứng khoán phái sinh liên quan đến hàng hoá thì IRB có quy định riêng theo cách tính


hạn mức tín dụng tương đương tùy thuộc vào giá trị thực hiện tương lai và chi phí giao dịch với kỳ hạn khác nhau.

Kỳ hạn (Maturity – M): thời hạn kinh tế còn lại của tài sản có. Khi các ngân hàng sử dụng phương pháp IRB cơ bản thì M sẽ là 2,5 năm trừ các giao dịch repo với M chỉ là 6 tháng. Cơ quan giám sát quốc gia có thể lựa chọn mức yêu cầu trong phạm vi quyền hạn của mình (đối với những ngân hàng sử dụng cả IRB cơ bản và nâng cao) để đo lường M theo công thức (CT1) dưới đây. Tuy nhiên, M không được lớn hơn 5 năm.

Nếu các ngân hàng sử dụng IRB nâng cao, thì M cần được tính toàn cho từng công cụ theo công thức 1 (CT1). Nếu muốn áp dụng cho các trường hợp ngoại lệ đặc biệt thì phải đảm bảo rằng các khoản phải đòi đối với hoạt động của các doanh nghiệp trong nước quy mô nhỏ có kỳ đáo hạn hiệu dụng trung bình là 2,5 năm giống như trong phương pháp IRB cơ bản.

Đối với các công cụ phụ thuộc vào dòng tiền, M được tính như sau: M = Ʃ t × CFt/ Ʃ CFt (CT1)

với CFt là dòng tiền hàng năm (gốc, lãi và phí) theo hợp đồng phải trả trong kỳ hạn

t. Nếu ngân hàng không tính được M theo công thức (CT1) thì sẽ sử dụng cách cổ điển khi tính M là M bằng với thời gian đáo hạn tối đa còn lại (theo năm) mà người vay chấp nhận thanh toán toàn bộ nghĩa vụ hợp đồng vay (gốc, lãi và phí). Thông thường, đó chính là thời gian đáo hạn danh nghĩa của khoản vay hoặc các công cụ.

Phương pháp IRB sẽ dựa trên việc đo lường những thiệt hại không mong đợi (UL – unexpected losses) và các thiệt hại biết trước (EL – expected losses). Hàm số hệ số rủi ro được sử dụng làm cơ sở tính toán nhu cầu vốn cần thiết cho tỉ trọng các thiệt hại không mong đợi (UL). Ngoài ra, với phương pháp IRB này thì các ngân hàng cũng phải phân hạng tài sản trên sổ sách của mình theo nhiều loại khác nhau, với những tính chất đặc thù tùy theo từng nhóm khoản phải đòi đối với các chủ thể như (a) doanh nghiệp, (b) chính quyền nhà nước, (c) ngân hàng, (d) cá nhân, các khoản mục lẻ và (e) vốn. Mỗi hạng tài sản này theo phân loại của IRB sẽ bao gồm ba nhân tố cơ bản:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/05/2023