Hình 2.1: Quy trình FTP
Khả năng kiểm soát rủi ro lãi suất và rủi ro thanh khoản theo quy trình FTP được các ngân hàng đánh giá là rất tốt và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây được xem là ưu điểm lớn nhất mà quy trình này mang lại với bối cảnh biến động của thị trường tài chính như hiện nay. Việc “mua/bán” vốn được thực hiện qua công nghệ hiện đại nên tính nhanh chóng, chính xác của các báo cáo cũng như sự tiện lợi trong việc quản lý nguồn vốn đều được đánh giá khá tốt. Lợi nhuận từ việc “mua/bán” vốn với trụ sở cũng góp phần lớn vào lợi nhuận chung của từng chi nhánh. Chi nhánh trở thành kênh phân phối hữu hiệu hơn vì vậy lượng khách hàng đến với chi nhánh được đánh giá là tăng lên đáng kể.
Tuy nhiên, theo các NHTM chi phí trong việc triển khai quy trình này là khá cao, đòi hỏi ngân hàng phải thật vững về mặt tài chính và đào tạo nhân lực. Đây là một trong những hạn chế lớn trong việc triển khai áp dụng quy trình FTP theo cơ chế quản lý vốn tập trung tại các NHTM ở Việt Nam.
Tóm lại: Có thể thấy, các NHTM Việt Nam đã có những nỗ lực lớn trong việc tăng vốn tự có và kiểm soát rủi ro. Hầu hết các NHTM cổ phần đều đã đạt được hệ số an toàn vốn (CAR) trên 8%, song, nếu so sánh với cách tính hệ số an toàn của Basel tức là tính đến cả vốn dành cho rủi ro thị trường thì chắc chắn rất ít NHTM Việt Nam đạt được tỷ lệ an toàn vốn ở mức trên 8%.
Trong khi đó, Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập, đặc biệt, khi Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các đối thủ cạnh tranh là các NHTM nước ngoài sẽ tràn vào với thế mạnh về vốn rất lớn, vì vậy,
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Trong Kinh Doanh Của Nhtm Việt Nam Theo Hiệp Ước Basel
- Thống Kê Tỷ Lệ Nợ Xấu Của Hệ Thống Nhtm Việt Nam Giai Đoạn 2003 - 2011
- Quản trị rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel - 14
- Một Số Hạn Chế Trong Công Tác Thanh Tra, Giám Sát Hệ Thống Nhtm Việt Nam Hiện Nay
- Đánh Giá Chung Về Hoạt Động Quản Trị Rủi Ro Trong Kinh Doanh Của Các Nhtm Việt Nam Theo Hiệp Ước Basel
- Đánh Giá Khả Năng Áp Dụng Hiệp Ước Basel Trong Công Tác Quản Trị Rủi Ro Tại Các Nhtm Việt Nam
Xem toàn bộ 277 trang tài liệu này.
quy mô về vốn của các NHTM Việt Nam chắc chắn phải tăng hơn nữa nhằm vừa đảm bảo hệ số hoạt động an toàn, vừa đảm bảo khả năng mở rộng kinh doanh, đáp ứng các yêu cầu mới từ thị trường.
2.2.2. Thực trạng công tác thanh tra, giám sát hoạt động và tuân thủ các quy định pháp luật của hệ thống ngân hàng Việt Nam theo Hiệp ước Basel
2.2.2.1. Công tác thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(i). Cơ cấu tổ chức
Theo các chuyên gia tư vấn quốc tế, có thể đưa ra ba mô hình cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng như sau:
(i) Mô hình Ngân hàng Trung ương chức năng phân tán, theo đó chức năng giám sát hoạt động ngân hàng có liên quan chặt chẽ đến các chức năng ngân hàng trung ương và tiền tệ khác;
(ii) Mô hình chức năng tập trung trong Ngân hàng trung ương nhưng vẫn thuộc cơ cấu tổ chức và trách nhiệm của Ngân hàng trung ương hoặc cơ quan tiền tệ, hoặc
(iii) Mô hình Cơ quan Giám sát độc lập có bộ máy lãnh đạo và hoạt động độc lập với Ngân hàng trung ương và Chính phủ.
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thiết lập một cơ cấu tổ chức thanh tra, giám sát ngân hàng khá rõ nét. Mô hình tổ chức của hệ thống Thanh tra Ngân hàng (TTNH) về cơ bản gắn liền với mô hình tổ chức phân tán của NHNN (theo địa giới hành chính). Tại cấp trung ương, thanh tra NHNN là một đơn vị có vị thế tương đương với một Vụ. Tại cấp chi nhánh, thanh tra chi nhánh NHNN là một bộ phận tương đương một phòng của chi nhánh NHNN. Theo Nghị định số 91/1999/NĐ-CP ngày 4/9/1999 của Chính phủ, TTNH được tổ chức thành hệ thống thuộc bộ máy của NHNN. Đứng đầu TTNH là Chánh Thanh tra NHNN do Thống đốc NHNN bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng thanh tra. Các Phó Chánh thanh tra NHNN được bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh thanh tra. TTNH chịu sự quản lý, điều hành trực tiếp của Thống
đốc NHNN trong việc thực hiện nhiệm vụ TTNH trong phạm vi cả nước, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác tổ chức, nghiệp vụ của thanh tra Chính phủ.
Như vậy, cơ cấu tổ chức hoạt động của thanh tra giám sát Ngân hàng hiện theo Mô hình chức năng phân tán, tức là các chức năng thanh tra giám sát ngân hàng không tập trung vào một bộ phận mà phân tán và được thực hiện bởi các Vụ, Cục khác nhau trong NHNN Việt Nam. Điều này thể hiện qua các vấn đề sau:
Việc cấp phép cho các TCTD hiện nay chủ yếu do Vụ Các Ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng thực hiện; Vụ thanh tra ngân hàng chỉ đóng vai trò hạn chế trong quá trình cấp giấy phép cho các TCTD.
Chức năng giám sát từ xa và giám sát tại chỗ thuộc trách nhiệm của Thanh tra NHNN nhưng trên thực tế, các Vụ khác trong NHNN cũng thực hiện chức năng giám sát từ xa. Điều này thể hiện qua việc các Vụ của NHNN như Vụ Kế toán tài chính, Vụ Tín dụng, Vụ Quản lý ngoại hối, Vụ Chính sách tiền tệ đều yêu cầu các TCTD phải báo cáo về tình hình hoạt động của TCTD theo nội dung thuộc phạm vi quản lý của các Vụ nói trên.
Nhiệm vụ phát hiện các vi phạm, sai phạm của các NHTM là nhiệm vụ của Thanh tra NHNN trong khi nhiệm vụ xử lý các sai phạm lại do các Vụ, Cục khác trong NHNN đảm nhiệm.
Các Vụ, Cục chức năng thuộc NHNN chịu trách nhiệm ban hành các quy định về chính sách và quy định an toàn cho hoạt động ngân hàng theo chức năng của đơn vị mình. Thanh tra NHNN chịu trách nhiệm giám sát thực hiện các quy định an toàn. Do cơ quan ban hành các quy định an toàn và cơ quan giám sát là hai đơn vị độc lập, vì thế, trong thực tế phát sinh những trường hợp có những bất đồng giữa việc hiểu và áp dụng các quy định giữa đơn vị ban hành quy định và đơn vị thanh tra giám sát.
Cơ chế phối hợp giữa cơ quan Thanh tra Trung ương với cơ quan Thanh tra tại các địa phương chưa được hoàn toàn thực hiện theo cơ chế chiều dọc. Chưa có sự phân định trách nhiệm một cách rõ ràng giữa Thanh tra giám sát ngân hàng ở Trung ương và Thanh tra ngân hàng ở địa phương về phạm vi hoạt động, chương
trình làm việc, các kênh thông tin báo cáo, chia sẻ thông tin, những vấn đề về thanh tra giám sát ngân hàng trên cơ sở hợp nhất.
Ngoài ra, cho đến nay, NHNN vẫn chưa có cơ chế phối hợp, sử dụng kết quả giám sát tại chỗ và giám sát từ xa, vì vậy, vừa gây lãng phí nguồn lực, vừa giảm hiệu quả trong thanh tra giám sát.
(ii). Mục tiêu của hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng
Theo thông lệ quốc tế, những mục tiêu chiến lược của hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng có thể tóm tắt qua 4 mục tiêu cơ bản sau: (1) Duy trì sự ổn định của thị trường; (2) Tăng cường sự nhận thức của công chúng; (3) Bảo vệ người tiêu dùng; (4) Giảm thiểu tội phạm tài chính.
Như vậy, so sánh với công tác thanh tra giám sát hiện tại của NHNN thì mục tiêu (1) và (4) được đánh giá là đã thực hiện một cách khá đầy đủ, trong khi mục tiêu (2) Tăng cường sự nhận thức của công chúng và (3) Bảo vệ người tiêu dùng cần được cải thiện đáng kể.
(iii). Phương pháp thanh tra giám sát ngân hàng
Khảo sát tình hình thực tế cho thấy, công tác thanh tra giám sát tại NHNN và tại cả các NHTM hiện nay chủ yếu nhằm đảm bảo việc chấp hành các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng của các NHTM (thanh tra tuân thủ). Tuy nhiên, có thể nói rằng, phương pháp thanh tra tuân thủ không còn thích hợp để có thể đảm bảo mục tiêu hoạt động hiệu quả và an toàn của hệ thống ngân hàng. Bởi vì, phương pháp này không giúp các thanh tra ngân hàng đánh giá, đo lường và giảm thiểu rủi ro của các TCTD – mục đích chính của hoạt động thanh tra giám sát. Trong khi đó, các nguyên tắc Basel đều yêu cầu các thanh tra giám sát ngân hàng phải đánh giá được tính đầy đủ và hiệu quả của hệ thống quản lý, đánh giá và đo lường các rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro quốc gia,… của TCTD được giám sát.
Ngoài ra, phương pháp thanh tra tuân thủ này sẽ không khuyến khích phát triển khả năng và kinh nghiệm của các thanh tra viên trong việc đánh giá, đo lường rủi ro, đề xuất biện pháp giảm thiểu rủi ro. Do vậy, phần nào làm giảm đi tính sáng
tạo của các thanh tra viên. Đồng thời, phương pháp này cũng sẽ làm cho các nguồn lực của hoạt động thanh tra giám sát không được phân bổ một cách hợp lý và hiệu quả theo nguyên tắc tập trung nguồn lực cho những lĩnh vực, TCTD bị đánh giá là có rủi ro cao đối với sự an toàn của hệ thống tài chính trong bối cảnh các giao dịch ngân hàng ở Việt Nam hiện nay ngày càng phức tạp.
(iv). Khung pháp lý đối với hoạt động của thanh tra ngân hàng
Luật ngân hàng và các quy định có liên quan hiện nay đã tạo thành một khung pháp lý tương đối hoàn thiện về an toàn hoạt động ngân hàng và tương đối phù hợp với các chuẩn mực Basel.
NHNN là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm giám sát an toàn hoạt động ngân hàng. Trong Luật Ngân hàng nhà nước có quy định NHNN cần phối hợp với các cơ quan Chính phủ khác nhưng dường như việc hợp tác này mới chỉ dừng lại ở các khía cạnh kinh tế và tiếp cận dịch vụ ngân hàng chứ chưa đi vào các vấn đề an toàn hoạt động.
Điều khoản quy định Mục tiêu của hoạt động Thanh tra – Giám sát ngân hàng trong Nghị định 91 về hoạt động thanh tra ngân hàng là đảm bảo an toàn của hệ thống tín dụng. Tuy nhiên, điều khoản quy định nội dung hoạt động của Thanh tra trong Nghị định 91 lại quy định rõ: hoạt động thanh tra ngân hàng là đảm bảo NHTM chấp hành pháp luật về tiền tệ và ngân hàng. Như vậy, khung pháp lý hiện hành chưa tạo được cơ chế đầy đủ, phù hợp cho hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng trên cơ sở định hướng rủi ro.
Ngoài ra, khung pháp lý ở Việt Nam hiện nay cũng chưa có các quy định về việc bảo vệ đối với đội ngũ thanh tra, giám sát ngân hàng khi thực thi nhiệm vụ của mình một cách đúng đắn và hợp lý.
(v). Chất lượng đội ngũ thanh tra, giám sát
Do đặc thù của mô hình chức năng tập trung của NHNN Việt Nam nên trong bộ phận Thanh tra ngân hàng có rất ít chuyên gia chuyên sâu về lĩnh vực ngân hàng hay những người có kinh nghiệm thực tiễn ngân hàng lâu năm. Điều này tất yếu làm ảnh hưởng đến chất lượng giám sát ngân hàng. Bên cạnh đó, do không có cơ chế
khuyến khích riêng đối với các Thanh tra viên nên nhìn chung tâm lý cán bộ không thích làm việc tại bộ phận này. Đây chính là một trong các lí do dẫn đến tình trạng thiếu cán bộ thanh tra giỏi, có năng lực và có kinh nghiệm.
Thực tế cho thấy, lực lượng thanh tra viên nhìn chung còn trẻ, ít kinh nghiệm về hoạt động ngân hàng. Công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ thanh tra viên chưa được thực hiện thường xuyên và bài bản, do vậy, gây ra những hạn chế nhất định đến việc nâng cao trình độ thanh tra viên. Hơn nữa, hạn chế trong hoạt động đào tạo dẫn đến thực tế là đa số Thanh tra ngân hàng chỉ mới thực hiện kiểm tra mức độ tuân thủ của ngân hàng với các quy định pháp lý chứ chưa đi sâu đánh giá hoạt động ngân hàng dựa trên kỹ năng xác định rủi ro.
(vi). Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng
Năm 2011, NHNN tiếp tục thực hiện hiệu quả các hoạt động thanh tra, giám sát; xây dựng chính sách; quản lý cấp phép; phòng chống, rửa tiền và xét giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đồng thời, NHNN cũng xử lý nhiều nhiệm vụ đột xuất về công tác thanh tra, giám sát để ứng phó với những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng trong nước.
a. Hoạt động thanh tra
Trong năm 2011, NHNN đã thực hiện hơn 1.000 cuộc thanh tra, kiểm tra, tập trung vào các nội dung chính gồm: (1) Thanh tra, kiểm tra các TCTD trong việc cho vay hỗ trợ lãi suất; (2) Thanh tra cho vay theo lãi suất thỏa thuận phục vụ đời sống và cho vay qua phát hành thẻ tín dụng; (3) Thanh tra hoạt động mua bán, thu đổi ngoại tệ; niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ bằng ngoại tệ, hoạt động sàn vàng; (4) Thanh tra tín dụng, bảo lãnh; kiểm tra, kiểm soát nội bộ; quản trị, điều hành; (5) Thanh tra việc huy động vốn, khuyến mại tiền gửi và thu phí cho vay bằng VND;
(6) Thanh tra quỹ đầu tư phát triển; dịch vụ tiết kiệm bưu điện; quỹ tín dụng nhân dân cơ sở; hoạt động tín dụng nội bộ hợp tác xã; (7) Kiểm tra chấp hành chế độ quản lý ngoại hối; Thanh tra Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương; kiểm tra việc xếp loại Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở; (8) Thực hiện thanh tra hành chính; hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các đơn vị trong ngành Ngân hàng thực hiện các quy định của
pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng và tội phạm; tổ chức tiếp công dân; tiếp nhận, xử lý, thẩm tra, xác minh đơn khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh các cuộc thanh tra, kiểm tra trực tiếp, NHNN đã thành lập các tổ công tác hoặc tổ chức các cuộc tiếp xúc, làm việc với các TCTD, nắm bắt kịp thời các vấn đề về tình hình tổ chức và hoạt động; cũng như các vấn đề phát hiện qua hoạt động giám sát để có những cảnh báo, khuyến nghị với các TCTD để phòng tránh và hạn chế những rủi ro trong quá trình hoạt động.
Kết quả thanh tra, kiểm tra không những đã chỉ ra những tồn tại, sai phạm, rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của TCTD, của thị trường tiền tệ, từ đó tiến hành xử lý theo thẩm quyền và đưa ra những yêu cầu, cảnh báo cần thiết; mà còn phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách có liên quan để trình cấp có thẩm quyền xem xét điều chỉnh; trong đó có các cơ chế chính sách về cho vay hỗ trợ lãi suất, quản lý ngoại hối, phục vụ kịp thời chỉ đạo của Thống đốc NHNN.
b. Hoạt động giám sát từ xa
Năm 2010, Dự án “Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ hoạt động giám sát từ xa” đã được tập trung triển khai; các mẫu biểu báo cáo, các chỉ tiêu phân tích, đánh giá được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao chất lượng công tác giám sát từ xa, từng bước hướng tới mục tiêu cảnh báo sớm rủi ro cho TCTD. Phương án xử lý thông tin phục vụ công tác Quản lý hệ thống QTDND, Dự án Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ hoạt động giám sát từ xa đã được triển khai, là tiền đề cho quá trình đổi mới căn bản hoạt động giám sát ngân hàng.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động và vấn đề bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, NHNN đã tập trung triển khai:(1) Nghiên cứu sửa đổi các văn bản hiện hành, cũng như xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật mới tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của các TCTD như Thông tư quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn; Thông tư quy định về việc phân loại nợ, trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng; Thông tư quy định về việc kiểm soát đặc biệt đối với TCTD; Thông tư yêu cầu tối thiểu về quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng.(2) Yêu cầu các TCTD tiếp tục nâng cao năng lực tài chính, trong đó, tập trung tăng vốn điều lệ theo Nghị
định 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 về ban hành danh mục vốn pháp định của các TCTD.(3) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các TCTD có dấu hiệu hoạt động kém an toàn, có sai phạm nghiêm trọng qua giám sát, thanh tra. Kiên quyết yêu cầu các TCTD khắc phục sai phạm, tồn tại phát hiện qua thanh tra và đồng thời yêu cầu các TCTD chấn chỉnh việc ban hành các quy trình nghiệp vụ, tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ và thực hiện nghiêm túc các quy định về an toàn trong hoạt động để giảm thiểu tối đa rủi ro. (4) Từng bước triển khai áp dụng phương pháp thanh tra, giám sát rủi ro theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế kết hợp với thanh tra, giám sát chấp hành chính sách pháp luật nhằm đảm bảo cho các TCTD hoạt động an toàn và theo đúng quy định của luật pháp; thực hiện theo nguyên tắc thanh tra toàn bộ hoạt động của TCTD. (5) Phối hợp với NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trong thanh tra, giám sát, xử lý sau thanh tra nhằm đảm bảo an toàn, ổn định hoạt động của hệ thống TCTD.(6) Thực hiện công tác quản lý, cấp phép các TCTD và hoạt động ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Đảm bảo các tổ chức được cấp phép thành lập mới có năng lực tài chính tốt, công nghệ hiện đại; đồng thời, tạo điều kiện cho các TCTD nói chung đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ để tăng tiện ích cho khách hàng và nền kinh tế, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh.
c. Công tác phòng, chống rửa tiền
Năm 2011, NHNN đã thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo phòng, chống rửa tiền, cũng như thực hiện vai trò đầu mối của Việt Nam trong nhóm Châu Á-Thái Bình Dương về phòng, chống rửa tiền. Hiện nay, NHNN đang tập trung vào việc xây dựng dự thảo Luật phòng, chống rửa tiền; vận hành hệ thống công nghệ thông tin; tiếp nhận và xử lý các báo cáo theo quy định của pháp luật; đảm bảo thực hiện trách nhiệm của Việt Nam theo các quy định của quốc tế về phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố.
2.2.2.2. Công tác kiểm tra, kiểm soát tại các NHTM Việt Nam
(i). Cơ cấu tổ chức bộ máy kiểm tra, kiểm soát tại các NHTM Việt Nam
Các NHTM Việt Nam hiện nay đều áp dụng hệ thống kiểm tra, kiểm soát theo mô hình sau: