Chiến Lược Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Và Khẩu Vị Rủi Ro Tín Dụng Theo Basel 2


Chức năng kiểm toán nội bộ (KToNB) định kỳ đánh giá sự tuân thủ các chính sách, qui trình, hướng dẫn nội bộ về hoạt động tín dụng đã được thiết lập, hiệu quả của KT-KSNB, phát hiện những yếu kém trong các chính sách, qui trình, thủ tục tín dụng và báo cáo lên lãnh đạo cấp cao nhất của ngân hàng (HĐQT).

Thứ 5: Đảm bảo vai trò của cơ quan giám sát (nguyên tắc 17)

Cơ quan giám sát yêu cầu các NHTM phải có hệ thống nhận diện, đo lường, giám sát và kiểm soát hiệu quả. Cơ quan giám sát phải thực hiện đánh giá độc lập sự đầy đủ và hiệu quả của hệ thống quản trị RRTD bao gồm chiến lược, chính sách, qui trình và các vấn đề liên quan đến quá trình cấp tín dụng và quản lý RRTD.

1.2.2.3 Chiến lược quản trị rủi ro tín dụng và khẩu vị rủi ro tín dụng theo Basel 2

a. Chiến lược quản trị rủi ro tín dụng

Chiến lược quản trị RRTD có thể hiểu là một chương trình, kế hoạch mang tính chất dài hạn về quản trị RRTD với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở rủi ro được kiểm soát ở mức độ ngân hàng có thể chấp nhận.

Chiến lược RRTD bao gồm các nội dung cơ bản: mục tiêu, nguyên tắc quản trị RRTD và các lĩnh vực kinh doanh cốt lõi. Chiến lược quản trị RRTD phải đề xuất các mục tiêu tín dụng tổng quát mà ngân hàng hướng tới bao gồm: loại hình cho vay, đối tượng khách hàng, ngành hàng, vùng địa lý, loại tiền cấp tín dụng, kỳ hạn, tỷ suất sinh lời mong đợi, đặc điểm rủi ro của danh mục tín dụng. Xây dựng chiến lược quản trị RRTD phải tính đến khả năng vốn tự có, mục tiêu tăng trường tín dụng, chất lượng tín dụng, tỷ suất sinh lời dự kiến, sự biến động của môi trường kinh doanh, chu kỳ kinh tế và sự tác động của nó đến cơ cấu và chất lượng danh mục tín dụng.

b. Khẩu vị rủi ro tín dụng


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.

Có thể hiểu khẩu vị RRTD là khả năng, cách thức, mức độ, phạm vi chấp nhận rủi ro tín dụng của một ngân hàng nhằm đạt được mục tiêu trong hoạt động tín dụng. Nói cách khác, khẩu vị RRTD là khả năng sẵn sàng chấp nhận RRTD của ngân hàng trên cơ sở có sự tính toán, cân đối giữa rủi ro, lợi nhuận để đảm bảo ngân hàng có thể đạt lợi nhuận cao nhất.

Xác định khẩu vị rủi ro được coi là vấn đề có ý nghĩa quyết định cả quá trình và kết quả quản trị RRTD của một ngân hàng. Khi xác định khẩu vị RRTD, ngân hàng tính đến năng lực quản lý rủi ro của ngân hàng, kỳ vọng của cổ đông, cơ quan quản lý nhà nước và các bên có lợi ích liên quan khác. Trong đó, cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản: (1) đảm bảo tính toàn diện, bao hàm mọi rủi ro ngân hàng có thể gặp phải trong hoạt động tín dụng, (2) Phải đo lường được sự tác động của RRTD: mô tả cụ thể hướng tác động và mức độ ảnh hưởng của RRTD lên hoạt động kinh doanh của ngân hàng, (3) phải phù hợp với chiến lược kinh doanh của ngân hàng, (4) Phải thường xuyên đánh giá lại, đảm bảo khẩu vị luôn phù hợp với sự biến động của các yếu tố bên ngoài cũng như tình hình hiện tại của ngân hàng.

Quản trị rủi ro tín dụng theo Hiệp ước Basel 2 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 6

Khẩu vị RRTD phải được cụ thể hóa thông qua: (i)Tiêu chuẩn cấp tín dụng cho từng phân đoạn khách hàng, sản phẩm tín dụng, khu vực địa lý, lĩnh vực kinh tế, loại tiền tệ, thời gian đáo hạn, (ii) Thị trường mục tiêu trong mỗi phân đoạn thị trường, mức độ tập trung/ đa dạng hóa danh mục tín dụng, (iii) Chiến lược về giá (lãi suất tín dụng)

Hay nói cách khác, khẩu vị rủi ro của ngân hàng được thực hiện thông qua việc thiết lập và thực hiện các giới hạn trong hoạt động tín dụng và mức độ, khả năng kiểm soát rủi ro đối với từng phân đoạn thị trường. Khẩu vị RRTD khi đã được xác định phải được triển khai trong hoạt động tín dụng hàng ngày trên toàn hệ thống ngân hàng, các bộ phận trực tiếp kinh doanh tín


dụng phải chủ động xác định thị trường mục tiêu và tiêu chí cấp tín dụng phù hợp với khẩu vị rủi ro đã được xác định.

Theo quan điểm Basel 2, Chiến lược RRTD phải phản ánh được khẩu vị RRTD đã xác định trong từng giai đoạn, HĐQT phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng phê duyệt Chiến lược và khẩu vị RRTD. Đồng thời, chiến lược và khẩu vị RRTD phải được đánh giá lại theo định kỳ hoặc khi có các yếu tố tác động làm thay đổi chiến lược và khẩu vị RRTD. Ngoài ra chiến lược và khẩu vị RRTD phải được truyền đạt trong toàn hệ thống ngân hàng và am hiểu đến từng nhân viên.

1.2.2.4 Tổ chức bộ máy quản trị rủi ro tín dụng trong Basel 2

Tổ chức Bộ máy quản trị RRTD là cách thức tổ chức, sắp xếp các bộ phận chức năng của hệ thống quản trị RRTD của một NHTM theo những nguyên tắc nhất định, đảm bảo mối liên kết giữa các bộ phận trong hệ thống nhằm đạt mục tiêu quản trị RRTD ngân hàng đã lựa chọn.

Việc thiết lập bộ máy quản trị RRTD thực chất là gắn các cá nhân, các bộ phận trong bộ máy quản trị RRTD với chức năng, quyền hạn và trách nhiệm nhất định nhằm đạt mục tiêu quản trị đã xác định. Vì vậy tổ chức bộ máy quản trị RRTD là cơ sở để thực thi quản trị RRTD.

Theo Ủy ban Basel, mỗi bộ phận chức năng trong bộ máy quản trị RRTD đều đảm nhận vai trò kiểm soát RRTD ở những khía cạnh khác nhau. Vì vậy, để kiểm soát RRTD khách quan và hiệu quả, việc tổ chức bộ máy quản trị RRTD cần tránh sự trùng lặp về chức năng, xung đột lợi ích giữa các bộ phận kiểm soát. Cùng với bộ “17 nguyên tắc quản trị RRTD”, Trụ cột 1 và 2 đã thêm 1 bước cụ thể hóa các chức năng kiểm soát RRTD. Theo đó, bộ máy quản trị RRTD cần đảm bảo sự độc lập giữa chức năng điều hành và chức năng giám sát, giữa chức năng kinh doanh và chức năng đánh giá lại tín


dụng, giữa chức năng kinh doanh, chức năng quản lý RRTD và chức năng KToNB.

Thông lệ hiện nay, để đảm bảo các nguyên tắc của Basel, các NHTM thực hiện tổ chức bộ máy quản trị RRTD “3 vòng kiểm soát” (three lines of defence-sơ đồ 1.2)

HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ

BAN ĐIỀU HÀNH

Vòng thứ ba

Vòng thứ nhất

Vòng thứ hai

KIỂM TOÁN

QUAN HỆ

QUẢN LÝ

NỘI BỘ

KHÁCH HÀNG

RỦI RO


Sơ đồ 1.2: Mô hình “3 vòng kiểm soát” rủi ro tín dụng của NHTM “Vòng” thứ nhất (quan hệ khách hàng): bao gồm các bộ phận trực tiếp

kinh doanh, bán hàng. Vòng này thực hiện chức năng xác định, đánh giá, ngăn ngừa, theo dõi và báo cáo rủi ro phát sinh trong hoạt động tín dụng. Trên cơ sở tự đánh giá RRTD (nhận diện, xác định, đánh giá rủi ro đầy đủ trước khi cấp tín dụng), bộ phận quan hệ khách hàng lựa chọn khách hàng và chấp thuận cấp tín dụng trong giới hạn khẩu vị rủi ro của ngân hàng. Đây là vòng đầu tiên và là vòng trực tiếp tiếp nhận RRTD thông qua hoạt động cấp tín dụng. Vòng này đảm bảo RRTD và môi trường kiểm soát rủi ro được thiết lập ngay trong giao dịch tín dụng hàng ngày của ngân hàng. Theo số liệu thống kê tại NHTM ở các quốc gia phát triển, Vòng quan hệ khách hàng có thể kiểm soát và hạn chế đến 80% RRTD của một ngân hàng.


“Vòng” thứ hai (quản lý rủi ro): Vòng này thực hiện chức năng quản lý rủi ro. Để thực hiện chức năng quản lý rủi ro, vòng thứ hai thực hiện các nhiệm vụ cơ bản: (1) thiết lập chiến lược quản trị rủi ro, khẩu vị rủi ro, chính sách quản trị RRTD; (2) xây dựng, ban hành các qui trình, qui chế về hoạt động tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng; (3) xây dựng hệ thống thông tin, hệ thống các công cụ, biện pháp để nhận diện, đo lường, kiểm soát, giám sát và báo cáo RRTD ở cấp độ từng khoản tín dụng và danh mục tín dụng; (4) đánh giá và kiểm soát hiệu quả hoạt động vòng thứ nhất. Theo yêu cầu của Ủy ban Basel, hoạt động của vòng thứ hai phải độc lập với vòng thứ nhất. Theo thống kê, vòng quản lý rủi ro có thể hạn chế khoảng 10% RRTD của một ngân hàng. Tuy nhiên, Bộ phận quản lý RRTD có vai trò quyết định khả năng kiểm soát RRTD của bộ phận quan hệ khách hàng. Bởi vì vòng thứ hai xác định đúng chiến lược, khẩu vị RRTD, thiết lập hệ thống qui chế, qui trình phù hợp là cơ sở vững chắc để vòng thứ nhất kiểm soát RRTD hiệu quả.

“Vòng” thứ ba (KToNB): KToNB thực hiện đánh giá độc lập hiệu quả của vòng thứ nhất, vòng thứ hai và hệ thống KT-KSNB của ngân hàng. Như vậy vòng kiểm soát thứ 3 sẽ là động lực để vòng thứ nhất và thứ hai hiệu quả hơn, giảm thiểu các sai phạm, gian lận và nâng cao ý thức trách nhiệm mỗi cá nhân khi hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Theo Basel 2, KToNB cần độc lập về chức năng với 2 vòng thứ nhất, thứ hai và KT-KSNB. Thông thường vòng thứ 3 trực thuộc HĐQT để đảm bảo tính độc lập, đồng thời giúp cho HĐQT, Ban Kiểm soát có thể nắm bắt thông tin xuyên suốt hoạt động của các bộ phận kinh doanh, bộ phận quản trị RRTD trong toàn hệ thống ngân hàng. Vòng kiểm soát này có thể hạn chế khoảng 10% RRTD của ngân hàng.

1.2.2.5 Chính sách quản trị rủi ro tín dụng theo Basel 2

Chính sách quản trị RRTD là hệ thống các qui định, hướng dẫn cụ thể về quản trị RRTD được thiết lập một cách đầy đủ, rõ ràng dưới dạng văn bản.


Chính sách quản trị RRTD chính là cụ thể hóa chiến lược quản trị RRTD, cũng có thể coi là công cụ để thực thi chiến lược quản trị RRTD. Các nội dung chủ yếu của chính sách quản trị RRTD bao gồm:

- Tiêu chuẩn cấp tín dụng

Tiêu chuẩn tín dụng là tập hợp các điều kiện người vay phải đáp ứng để được ngân hàng cấp tín dụng. Các tiêu chuẩn cấp tín dụng thường phải thể hiện được các nội dung chính: Khả năng tài chính và thiện chí trả nợ của người vay, mục đích và hiệu quả sử dụng vốn vay và đảm bảo tín dụng. Hệ thống tiêu chuẩn phải cụ thể theo từng loại hình cho vay, từng đối tượng khách hàng. Tiêu chuẩn tín dụng rõ ràng, cụ thể là cơ sở quan trọng để có thể phê duyệt một khoản tín dụng an toàn và thận trọng. Bởi vì, tiêu chuẩn tín dụng không những là cơ sở để xác định loại khách hàng và đặc điểm khách hàng mà còn quyết định đến RRTD của khoản tín dụng được cấp và danh mục tín dụng của ngân hàng.

- Giới hạn cấp tín dụng

Giới hạn cấp tín dụng là công cụ quan trọng để kiểm soát RRTD thông qua việc khống chế phạm vi, qui mô và quyền hạn cấp tín dụng. Bao gồm:

Giới hạn tín dụng: là khối lượng tín dụng tối đa được cấp cho một khách hàng. Giới hạn tín dụng phải thiết lập cụ thể cho từng khách hàng, (nhóm khách hàng liên quan), từng sản phẩm tín dụng, từng kỳ hạn, từng lĩnh vực hoạt động, từng ngành nghề, từng loại tiền và khu vực địa lý. Giới hạn tín dụng phải căn cứ vào các yếu tố: Giới hạn tín dụng do cơ quan có thẩm quyền qui định, khẩu vị, chiến lược rủi ro ngân hàng đã xác định, đặc điểm, khả năng tài chính của khách hàng và điều kiện, môi trường bên ngoài (môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, tự nhiên…). Giới hạn tín dụng được thiết lập nhằm đảm bảo các hoạt động cấp tín dụng được đa dạng hóa, các giới hạn này cần mang tính ràng buộc và không tùy thuộc vào nhu cầu của khách hàng.


Giới hạn quyền phán quyết tín dụng: là giới hạn phê duyệt mức cho vay tối đa đối với một khách hàng. Giới hạn quyền phán quyết tín dụng phải căn cứ vào các yếu tố cơ bản: Năng lực, kinh nghiệm cá nhân được giao thẩm quyền phê duyệt tín dụng; vị trí, vai trò, công việc mà cá nhân đó đang đảm nhiệm tại ngân hàng, cơ cấu bộ máy quản trị tín dụng của ngân hàng, qui mô và mức độ phức tạp của khoản vay và giới hạn tín dụng của khách hàng

- Qui trình, thủ tục quản trị rủi ro tín dụng

Qui trình, thủ tục quản trị RRTD là trình tự và nội dung cụ thể các bước phải trải qua khi thực hiện các hoạt động quản trị RRTD. Bao gồm: (1) qui trình, thủ tục cấp và quản lý tín dụng; (2) Qui trình, thủ tục áp dụng các biện pháp giảm RRTD; (3) Qui trình, thủ tục sử dụng các công cụ, các biện pháp để nhận diện, đo lường, đánh giá, giám sát và kiểm soát RRTD. Việc ban hành các hướng dẫn về qui trình, thủ tục quản trị RRTD là cơ sở quan trọng để quản trị RRTD hiệu quả bởi mỗi khâu, mỗi giai đoạn của các hoạt động quản trị RRTD đều tác động trực tiếp đến kết quả quản trị RRTD của ngân hàng.

Theo quan điểm Basel 2, ngân hàng cần thiết lập đầy đủ, cụ thể, chi tiết các tiêu chuẩn, giới hạn tín dụng, các qui trình, thủ tục quản trị RRTD đối với từng khách hàng, từng nhóm khách hàng liên quan, từng loại hình tín dụng, bao gồm các khoản tín dụng mới và tín dụng tái cơ cấu, tái tài trợ căn cứ vào đặc điểm, mục tiêu cần đạt được đối với từng hoạt động quản trị.

1.2.2.6 Qui trình và thủ tục quản trị rủi ro tín dụng theo Basel 2

a. Nhận diện rủi ro tín dụng

Nhận diện RRTD là một quá trình được thực hiện liên tục, có hệ thống nhằm xác định các rủi ro hiện có và có thể phát sinh trong hoạt động tín dụng của NHTM.


Nhận diện RRTD thực chất là quá trình theo dõi, xem xét, nghiên cứu một cách toàn diện từ các hoạt động nội bộ bên trong ngân hàng đến môi trường kinh doanh bên ngoài nhằm thống kê và dự báo tất cả các RRTD có thể phát sinh. Nhận diện RRTD tác động đến tất cả các hoạt động quản trị RRTD. Nhận diện đúng, đầy đủ các RRTD thì ngân hàng mới có thể đo lường, đánh giá chính xác mức độ rủi ro cũng như tác động của rủi ro đến mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Từ đó, có biện pháp để quản lý, kiểm soát và tài trợ thích hợp, đảm bảo RRTD luôn nằm trong khả năng chấp nhận của ngân hàng.

Nhận diện RRTD phải trên nguyên tắc: (i) RRTD phải được xác định một cách đầy đủ, toàn diện và thường xuyên đánh giá lại; (ii) RRTD phải được xác định trên tất cả các sản phẩm và tất cả các hoạt động tín dụng của ngân hàng; (iii) Xác định RRTD đã xảy ra, đang xảy ra và dự báo những rủi ro mới có khả năng phát sinh trong tương lai; (iiii) Nhận diện RRTD phải thực hiện một cách liên tục cả ở cấp độ các khoản tín dụng riêng lẻ và cấp độ danh mục tín dụng thông qua hệ thống các công cụ, phương tiện và kỹ thuật tại mỗi ngân hàng.

Để thực hiện nguyên tắc trên, việc nhận diện RRTD phải được thực hiện một cách thường xuyên thông qua thị trường mục tiêu, tiêu chuẩn cấp tín dụng và đánh giá lại tín dụng.

Nhận diện RRTD thông qua thị trường mục tiêu: Mỗi ngân hàng ở từng giai đoạn nhất định sẽ có các thị trường mục tiêu khác nhau trên cơ sở đặc tính sản phẩm cũng như khả năng cung ứng sản phẩm cho thị trường. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho các khách hàng thuộc thị trường mục tiêu đã được xác định và phê duyệt. Bởi vậy thị trường mục tiêu chính là căn cứ để ngân hàng nhận diện các RRTD hiện hữu cũng như RRTD có nguy cơ phát sinh cho từng phân đoạn thị trường. Mỗi thị trường mục tiêu đều có những đặc

Xem tất cả 241 trang.

Ngày đăng: 05/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí