Giải Pháp 2: Tăng Mức Chi Phí Trích Lập Dự Phòng Rủi Ro Tín Dụng


có tác động ngược chiều lên cả hai biến phụ thuộc ROA và ROE với mức ý nghĩa 5%, chỉ đúng 50% với kỳ vọng của nghiên cứu. Nghiên cứu của Podviezko và Ginevcius (2010) cũng xem xét nhân tố tỷ trọng chi phí hoạt động trên tổng tài sản và trên tổng thu nhập của ngân hàng nhằm đánh giá khả năng quản lý của nhà quản trị, sự gia tăng trong chi phí hoạt động kéo theo sự sụt giảm trong lợi nhuận. Thật vậy, mô hình nghiên cứu thể hiện đúng bản chất thực trạng của hệ thống NHTM Việt Nam trong những năm gần đây, áp lực mở rộng mạng lưới hoạt động, gia tăng nguồn nhân lực chất lượng, phát triển sản phẩm dịch vụ đi đôi đổi mới công nghệ buộc các NHTM phải chạy đua gia tăng chi phí hoạt động, làm giảm lợi nhuận. Bên cạnh đó, một khi chất lượng quản lý tốt, bộ máy ngân hàng hoạt động hiệu quả thì việc đầu tư nhiều chi phí hoạt động để thực hiện mục tiêu dài hạn nhằm gia tăng hiệu quả hoạt động là điều hiển nhiên. Đó là lý do vì sao ngành ngân hàng Việt Nam lại đi ngược với xu hướng chung của thế giới. Vì vậy, trong bối cảnh hiện nay, mối quan hệ giữa chi phí hoạt động và lợi nhuận của ngân hàng có tương quan hai chiều. Tuy nhiên, đối với nhân tố này tác giả cần lưu ý phương án sử dụng chi phí sao cho có hiệu quả nhất.

Đối với các nhân tố vĩ mô, chỉ có tỷ lệ lạm phát (CPI) có ý nghĩa thống kê và có mối liên hệ cùng chiều với hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam (ở mức ý nghĩa 5%). Kỳ vọng giả thuyết H13 của tác giả là đúng, cũng như Syafri (2012) đã nhận định, việc các nhà quản trị ngân hàng dự đoán được lạm phát kỳ vọng và điều chỉnh mức lãi suất phù hợp thì sẽ đạt được mục tiêu lợi nhuận cao, từ đó ổn định hiệu quả hoạt động trong ngân hàng.

Nhìn bao quát cả 2 mô hình nghiên cứu, ngoài biến CPI thì không có biến bên ngoài nào có ý nghĩa thống kê. Điều đó cho thấy, hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam chịu tác động chủ yếu từ các yếu tố bên trong.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 4


Kết quả mô hình thực nghiệm đã chứng minh và đưa ra các nguyên nhân, mức độ tác động của các nhân tố vi mô và vĩ mô lên hiệu quả hoạt động ngân hàng, giúp cho các nhà quản trị có cái nhìn đầy đủ, toàn diện và chính xác hơn với phương thức tiếp cận một phương pháp khoa học mới trong đo lường và đánh giá hiệu quả hoạt động ngân hàng.

So với mô hình ban đầu mà tác giả xây dựng gồm 17 biến độc lập thì có 12 biến tác động đến mô hình nhưng trong đó chỉ có 7 biến là có ý nghĩa thống kê và tác giả dựa vào kết quả đó đưa ra nhận định cuối cùng cho sự tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM.

Điều đáng chú ý nhất từ kết quả của mô hình, nhân tố chất lượng quản lý mà tác giả sử dụng OPEXTI và OPEXTA làm biến đại diện có tác động hai chiều lên cả hai biến phụ thuộc ROA và ROE, trong đó OPEXTI thì có tác động tích cực, còn OPEXTA thì có tác động tiêu cực. Điều này cho thấy, cùng một nhân tố tác động mà có hai xu hướng tồn tại tương quan lên hiệu quả hoạt động ngân hàng. Đây được xem là tính mới của bài nghiên cứu, qua đó cho thấy các nhà quản trị ngân hàng cần phải linh hoạt trong việc sử dụng chi phí hoạt động nhằm mục tiêu tăng lợi nhuận cho ngân hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Chính vì vậy, trong chương 5 tác giả sẽ đề ra các mục tiêu và kiến nghị giải pháp dựa trên kết quả của mô hình và tình hình thực tiễn của ngành ngân hàng Việt Nam nhằm hỗ trợ các nhà quản trị ngân hàng dễ dàng hơn trong công tác hoạch định chiến lược và điều hành quản lý để vực dậy tình hình hoạt động của ngân hàng mình. Bên cạnh đó, tác giả cũng đặc biệt lưu ý một số khó khăn, vướng mắc chưa thể thực hiện được trong các kiến nghị.


Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam - 9

CHƯƠNG 5


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


5.1. Kết luận


Với kĩ thuật phân tích hồi quy bảng và hướng tiếp cận lựa chọn mô hình phù hợp OLS, FEM và REM, nghiên cứu đã tìm thấy bảy nhân tố tác động mạnh mẽ lên hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam: Cấu trúc tài sản, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, quy mô tài sản, đòn bẩy tài chính, chất lượng quản lý (thể hiện ở hai nhân tố: chi phí hoạt động trên tổng tài sản và trên tổng thu nhập), cuối cùng là tỷ lệ lạm phát, trong đó cấu trúc tài sản và tỷ lệ chi phí hoạt động trên tổng tài sản tác động ngược chiều lên hiệu quả hoạt động ngân hàng. Mô hình nghiên cứu cũng tìm thấy các nhân tố như cấu trúc tài trợ, hiệu quả chi phí lãi, đa dạng hóa thu nhập, sự tín nhiệm của khách hàng và tăng trưởng kinh tế cũng tác động đến ROA, ROE nhưng không có ý nghĩa thống kê, nên các nhân tố này chưa đủ tin cậy để thừa nhận.

Do vậy, dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm và thực trạng ngành ngân hàng Việt Nam hiện nay, tác giả xin đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường tính minh bạch, an toàn cho các NHTM Việt Nam.


5.2. Giải pháp và kiến nghị


5.2.1. Giải pháp 1: Cải thiện chất lượng tài sản


5.2.1.1. Mục tiêu của giải pháp


Cấu trúc tài sản của ngân hàng tập trung chủ yếu vào dư nợ cho vay, thực trạng hệ thống ngân hàng Việt Nam cho thấy tuy hoạt động tín dụng của các NHTM đang trong giai đoạn phục hồi, có những dấu hiệu khởi sắc, nợ xấu chỉ chiếm 2,55% tổng dư nợ ngân hàng theo báo cáo của NHNN vào thời điểm 31/12/2015, nhưng


dường như con số đó chỉ thể hiện phần nào vấn đề chất lượng tài sản của hệ thống ngân hàng bởi nó chưa tính cả các khoản nợ xấu do VAMC nắm giữ. Vì vậy, nếu tính gộp cả nợ xấu do VAMC nắm giữ thì tổng nợ xấu toàn hệ thống vẫn sẽ vượt hơn rất nhiều so với con số 3%, vượt mức an toàn cho phép do NHNN quy định. Điều này cho thấy, chất lượng tín dụng của các NHTM thực chất vẫn trong tình trạng yếu kém, việc xử lý nợ xấu của các ngân hàng chủ yếu thông qua việc bán nợ cho VAMC nhưng VAMC xử lý nợ xấu chưa hiệu quả, tác động giảm nợ theo báo cáo của các ngân hàng chỉ mang tính chất tạm thời, chưa khả thi. Chất lượng tín dụng thấp kéo theo chất lượng tài sản thấp sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động ngân hàng, là rủi ro đối với ngành ngân hàng, là nguyên nhân làm giảm mức xếp hạng tín nhiệm của các ngân hàng, nếu không được cải thiện.

Mô hình thực nghiệm cũng cho thấy rò cấu trúc tài sản có tác động ngược chiều và mạnh nhất đối với hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2010 – 2015. Do vậy, mục tiêu đề ra cải thiện chất lượng tài sản thông qua việc nâng cao chất lượng tín dụng, trong đó chú trọng việc xử lý nợ xấu thực chất qua VAMC cần phải đặc biệt quan tâm.


5.2.1.2. Kiến nghị thực hiện


Như mục tiêu đã đề ra, cải thiện chất lượng tài sản trong tình hình hiện nay là vấn đề xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, việc mua bán nợ xấu phải được xử lý triệt để nhằm phục vụ tái cơ cấu doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua khó khăn.

Trong quá trình thực hiện phương án tái cấu trúc doanh nghiệp, theo quy trình chuẩn thì cần chủ động kiểm soát chặt chẽ rủi ro, từ việc phải tự tìm hiểu thông tin về doanh nghiệp, đàm phán mua nợ từ các chủ nợ và đàm phán với chủ sở hữu doanh nghiệp để chuyển nợ thành vốn góp tại doanh nghiệp. Đây là cách cơ cấu lại nguồn vốn và nợ của doanh nghiệp, làm giảm nhẹ gánh nặng trả nợ cho doanh nghiệp và cũng là khâu quan trọng nhất quyết định mức độ thành công của hoạt động tái cơ cấu. Đồng thời, tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược tham gia góp vốn


vào doanh nghiệp để tận dụng những kinh nghiệm quản trị, trình độ kỹ thuật, kênh phân phối, nhằm hỗ trợ doanh nghiệp sau tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình doanh nghiệp thành công ty cổ phần, tái cơ cấu bộ máy quản lý điều hành và nguồn nhân lực của doanh nghiệp, tái cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh, cơ cấu thị trường tiêu thụ, vùng nguyên liệu, hỗ trợ hoạt động sau chuyển đổi như điều chỉnh kế hoạch trả nợ, xây dựng thể chế, xây dựng mục tiêu chiến lược để duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.

Hiện nay, trên thị trường mua bán nợ, mặc dù cung về nợ xấu khá lớn nhưng số lượng công ty chuyên trong hoạt động mua bán nợ xấu lại không nhiều. Số lượng các đơn vị có tính chuyên nghiệp trong mua bán nợ xấu tại Việt Nam có Công ty trách nhiệm hữu hạn Mua bán nợ Việt Nam (DATC) trực thuộc Bộ Tài chính, Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) thuộc NHNN và khoảng 20 công ty mua bán nợ tư nhân (AMC) trực thuộc các NHTM.

Trong số đó, sự thành lập và hoạt động của DATC đã có những kết quả tốt trong việc mua, xử lý nợ xấu, giúp cho việc tái cơ cấu lại các doanh nghiệp. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu thông qua tái cơ cấu doanh nghiệp của DATC có ý nghĩa quan trọng trong việc xử lý nợ xấu hiện nay. Đây là điểm khác biệt với VAMC khi công ty này mua nợ nhưng thực chất mối liên hệ giữa ngân hàng và con nợ vẫn còn, chưa giải quyết toàn diện mối quan hệ vay trả trên thị trường. Các ngân hàng sau khi bán nợ cho VAMC vẫn có trách nhiệm tiếp tục trích lập dự phòng và cùng VAMC thu hồi nợ. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh và phát huy công cụ xử lý nợ xấu như DATC.

Mặt khác, VAMC nên nhanh chóng triển khai các giải pháp tái cấu trúc các doanh nghiệp đối với những khoản nợ đã được mua về. Để khắc phục hạn chế về năng lực và kinh nghiệm của VAMC trong lĩnh vực kinh doanh mới là mua bán nợ xấu gắn với tái cấu trúc doanh nghiệp, NHNN cần ban hành cơ chế phối hợp giữa VAMC với DATC cũng như với các tổ chức mua bán nợ chuyên nghiệp khác.


Bên cạnh đó, với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng tiền tệ, kiến nghị NHNN yêu cầu các ngân hàng rà soát và tăng cường quản trị rủi ro, trong đó có rủi ro tín dụng và quy định về xác định giá trị tài sản bảo đảm, tích cực hoàn thiện quy định về phân loại tài sản có, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Đồng thời, NHNN cũng thường xuyên chỉ đạo các NHTM thực hiện đúng quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng và giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với từng ngân hàng phù hợp với năng lực hoạt động, quản trị, điều hành của tổ chức, tăng cường thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.


5.2.1.3. Một số lưu ý khi ngân hàng triển khai giải pháp


Tuy nhiên hoạt động mua bán nợ xấu phục vụ tái cơ cấu doanh nghiệp vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Số lượng các công ty tham gia mua nợ chuyên nghiệp rất ít, hoạt động chưa hiệu quả, đa số các doanh nghiệp mắc nợ chưa tham gia vào việc tái cơ cấu doanh nghiệp. Thêm vào đó là năng lực tài chính và nhân sự các công ty tham gia mua bán nợ xấu còn hạn chế, thiếu chuyên gia giỏi trong việc tái cơ cấu doanh nghiệp. Hơn nữa, các ngân hàng không có nhiều động lực xử lý nợ xấu, bởi thế không quan tâm tới tái cấu trúc doanh nghiệp để xử lý nợ xấu vì khi bán nợ xấu, thường họ phải chấp nhận ghi nhận lỗ trên sổ sách.

5.2.2. Giải pháp 2: Tăng mức chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng

5.2.2.1. Mục tiêu của giải pháp


Như giải pháp 1 đã phân tích, vấn nạn nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn đang tiếp diễn, có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động ngân hàng, cũng như kéo theo nền kinh tế trì trệ, chậm phát triển. Thêm vào đó, việc mua lại nợ xấu của tổ chức VAMC trên thực tế là vẫn tồn đọng nợ xấu trong


nền kinh tế, hiện nay NHNN vẫn chưa có phương hướng hiệu quả nào để giải quyết nợ xấu một cách triệt để. Do vậy, mỗi NHTM cần có lối đi riêng nhằm giải quyết nợ xấu sao cho hiệu quả.

Dựa vào kết quả phân tích mô hình hồi quy ở chương 4, nhân tố chi phí dự phòng rủi ro tín dụng có ảnh hưởng cùng chiều với hiệu quả hoạt động ngân hàng. Cộng thêm tình hình nợ xấu như hiện nay, nghiên cứu đề xuất tăng mức chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng nhằm tái cơ cấu, nâng cao năng lực tài chính và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam.


5.2.2.2. Kiến nghị thực hiện


Theo quy định của NHNN hiện nay, với mỗi khoản cho vay, NHTM phải trích 0,75% cho dự phòng chung (dành cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ). Và tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với từng nhóm nợ như sau: Nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) không cần trích lập; nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) 5%, nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) 20%, nhóm 4 (nợ nghi ngờ) 50%, nhóm 5 (nợ có nguy cơ mất vốn) 100%. Mức trích dự phòng rủi ro này không phải quá thấp, nhưng đặt trong bối cảnh nợ xấu toàn hệ thống rất lớn hiện nay là khá thấp, không phù hợp. Các NHTM cần phải tự giác trong việc cân đối nguồn dự trữ để tăng chi phí dự phòng rủi ro lên từ 10% - 20% so với mức quy định, tùy vào quy mô tín dụng mà mỗi NHTM có mức tăng sao cho hợp lý. Đặc biệt đối với khoản nợ xấu báo động, các NHTM cần chủ động trích lập tối đa dự phòng rủi ro (bằng 100% giá trị), lưu ý không cần phải đợi khoản nợ chuyển sang nợ nhóm 5, linh hoạt dùng quỹ này để xử lý nợ xấu.

Vai trò của NHNN trong công tác trích lập dự phòng để bù đắp tổn thất cho nợ xấu là hết sức quan trọng. Dựa vào quy mô tín dụng của từng ngân hàng mà NHNN Việt Nam cần đưa ra quy định mới cho mức dự phòng chung và dự phòng cụ thể. Trong giai đoạn khó khăn như hiện nay, mỗi khoản vay ra đều cần trích dự phòng bằng 100% giá trị, trừ nhóm nợ đủ chuẩn không cần phải trích lập. Thậm chí,


tỷ lệ dự trữ trên tổng nợ xấu này có thể tăng lên đến 150%, việc này nhằm đảm bảo các ngân hàng có đủ lượng dự trữ bù đắp, không chỉ cho những khoản vay có vấn đề rò ràng, mà còn cho những món vay tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu do tăng trưởng tín dụng cao và chất lượng kiểm soát tín dụng kém. Bên cạnh đó, ngoài việc trích lập dự phòng dựa trên nhóm nợ, NHNN cần phải tính toán, xem xét, trích lập dựa trên sự khác biệt giữa các ngành nghề đi vay. Ngành nghề nào có rủi ro phá sản cao cần phải trích lập dự phòng cao hơn.


5.2.2.3. Một số lưu ý khi ngân hàng triển khai giải pháp


Việc trích lập dự phòng cao là nguyên nhân khiến lợi nhuận của ngân hàng giảm. Do vậy, các ngân hàng đang cố gắng che giấu các khoản nợ xấu nhằm giảm bớt chi phí bắt buộc dự trữ cũng như tạo lòng tin cho người gửi tiền. Hiện nay, nợ xấu theo báo cáo của các ngân hàng và nợ xấu thực tế có sự chênh lệch nhau rất lớn, điều này sẽ gây khó khăn trong việc tính toán chính xác cho khoản chi phí dự phòng rủi ro tín dụng. Do vậy, yêu cầu đặt ra là các NHTM cần phải hợp tác, trung thực, thẳng thắn đối mặt với vấn nạn nợ xấu, nhằm mục tiêu hướng tới lành mạnh hóa khả năng tài chính cho toàn hệ thống ngân hàng.

Khi trích lập dự phòng rủi ro tín dụng ở các ngân hàng, cần phải chú ý tới việc xử lý và định giá tài sản đảm bảo. Giá trị tài sản đảm bảo được sử dụng trong tính toán dự phòng thực tế cần phải trích lập. Tuy nhiên, vấn đề định giá tài sản đảm bảo ở Việt Nam chưa có một khung pháp lý rò ràng. Một số NHTM sử dụng tổ chức bên ngoài định giá theo tiêu chuẩn nội bộ, còn việc áp dụng theo khung giá Nhà nước ban hành thì rất thấp so với giá thị trường. Khi có quyết định xử lý tài sản đảm bảo thì các định giá này cũng không được sử dụng và phải tuân theo các quy định của Bộ luật dân sự khi có tranh chấp. Do vậy, việc định giá tài sản đảm bảo ở các NHTM chỉ mang tính danh nghĩa và việc tính toán giá trị tài sản đảm bảo thiếu chính xác. Dẫn tới việc trích lập dự phòng cũng mang tính tự phát và không đồng nhất giữa các ngân hàng. Điều quan trọng hơn, nó sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc đánh giá chính xác rủi ro tín dụng và nợ xấu tại các NHTM. Vấn đề đặt ra, NHNN

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 03/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí