Quản trị rủi ro tín dụng theo Hiệp ước Basel 2 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 7


điểm riêng về sản phẩm, khách hàng và ngành nghề. Vì vậy, khi nhận diện RRTD thông qua thị trường mục tiêu ngân hàng phải phân tích, đánh giá đầy đủ các yếu tố có thể gây ra RRTD theo từng loại sản phẩm, từng khách hàng (nhóm khách hàng) và ngành nghề để ở từng thị trường.

Nhận diện RRTD thông qua tiêu chuẩn cấp tín dụng: Tiêu chuẩn cấp tín dụng sẽ hình thành nên đặc điểm RRTD đối với từng khoản tín dụng và đối với danh mục tín dụng của mỗi ngân hàng. Vì vậy, tiêu chuẩn cấp tín dụng là cơ sở để xác định RRTD hiện hữu và có khả năng phát sinh đối với các khoản tín dụng được phê duyệt.

Nhận diện RRTD thông qua đánh giá lại tín dụng: Đối với các khoản tín dụng khách hàng chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo cam kết, ngân hàng phải tổ chức đánh giá lại theo định kỳ. Việc đánh giá lại dựa trên hệ thống các tiêu chí do ngân hàng qui định với mục đích đánh giá lại RRTD các khoản nợ. Vì vậy, đánh giá lại tín dụng là cơ sở nhận diện sớm các RRTD có thể phát sinh trong quá trình khách hàng sử dụng vốn.

Theo Trụ cột 2 của Basel 2, để nhận diện đầy đủ RRTD ngân hàng cần chú ý các vấn đề cơ bản:

- Phải có các phương pháp, công cụ phù hợp để phân tích và nhận diện đầy đủ RRTD hiện có và có thể phát sinh đối với từng khoản tín dụng và danh mục tín dụng của ngân hàng.

- Hoàn thiện hệ thống XHTDNB và sử dụng như một công cụ quan trọng để cung cấp thông tin cho việc nhận diện RRTD đối với tất cả các khoản vay.

- Sử dụng công cụ kiểm tra sức chịu đựng (Stress-Testing) nhằm thiết kế các kịch bản căng thẳng về thị trường và yếu tố khác tác động đến RRTD để nhận diện sớm RRTD.


- Xác định các rủi ro của ngân hàng chưa được đề cập trong trụ cột 1 như: rủi ro lãi suất trên sổ kinh doanh, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản… để đảm bảo nhận diện đầy đủ, chính xác RRTD.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.

b. Đo lường, đánh giá rủi ro tín dụng

Đo lường RRTD thực chất là quá trình sử dụng các công cụ, các kỹ thuật và phương pháp để xác định mức độ RRTD (khả năng không trả được nợ của khách hàng). Đánh giá rủi ro tín dụng là quá trình xác định mức độ, khả năng tác động của RRTD lên hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Quản trị rủi ro tín dụng theo Hiệp ước Basel 2 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 7

Mục đích của việc đo lường, đánh giá RRTD là xác định mức độ RRTD, từ đó ước lượng mức độ tổn thất do RRTD gây ra và có kế hoạch ứng phó kịp thời để hạn chế tổn thất cho ngân hàng. Kết quả đo lường, đánh giá RRTD tác động trực tiếp đến khả năng kiểm soát RRTD của ngân hàng. Vì vậy, việc đo lường, đánh giá RRTD phải được thực hiện một cách chính xác và kịp thời ở cấp độ từng khoản tín dụng riêng lẻ và danh mục tín dụng.

Hiệp ước Basel 2 đề xuất 2 cách tiếp cận để đo lường, đánh giá RRTD: phương pháp chuẩn hóa và phương pháp tiếp cận xếp hạng nội bộ.

. Phương pháp chuẩn hóa (The Standardized Approach- SA): là phương pháp sử dụng kết quả xếp hạng tín dụng của các tổ chức xếp hạng tín dụng độc lập. Theo Basel 2, NHTM chỉ được phép sử dụng kết quả xếp hạng bên ngoài của các tổ chức độc lập được cơ quan giám sát ngân hàng thừa nhận và NHTM phải công khai thông tin về tổ chức xếp hạng mà họ sử dụng cũng như trọng số rủi ro gắn với từng hạng đánh giá của tổ chức xếp hạng đó.

Theo phương pháp này, các tài sản “có” được phân loại theo 2 chiều. Chiều dọc- theo loại khách hàng bao gồm: Chính phủ, Cơ quan nhà nước, Ngân hàng phát triển đa quốc gia, ngân hàng, công ty chứng khoán, Doanh nghiệp, danh mục bán lẻ (cá nhân, doanh nghiệp nhỏ…) và các đối tượng khác. Chiều ngang- theo hạng tín nhiệm được cung cấp bởi tổ chức xếp hạng


bên ngoài. Tính mức vốn cho rủi ro: Hệ số rủi ro mỗi khoản tín dụng được xác định cụ thể căn cứ vào nhóm khách hàng và hạng của khách hàng. Giá trị ròng các khoản tín dụng được điều chỉnh theo giá trị TSBĐ.

● Phương pháp tiếp cận xếp hạng nội bộ (The Internal Ratings - Based Approach- IRB): Theo phương pháp này, NHTM sử dụng hệ thống xếp hạng nội bộ để đo lường, đánh giá RRTD. Basel 2 cung cấp 2 phương pháp IRB để ngân hàng lựa chọn phù hợp với qui mô, đặc điểm và nguồn lực của từng ngân hàng là IRB cơ bản (Foundation) và IRB nâng cao (Advanced). Sự khác biệt chính của 2 phương pháp này là mức độ sử dụng các ước lượng nội bộ để đo lường rủi ro.

Theo phương pháp IRB, các yếu tố cấu thành rủi ro bao gồm: “xác suất khách hàng không trả được nợ”- PD (Probability of Default), Tỷ trọng tốn thất ước tính-LGD (Loss Given Default), tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ- EAD (Exposure at Default) và Kỳ hạn hiệu dụng – M (Effective Maturity)

Tiếp cận IRB cơ bản , ngân hàng sử dụng ước lượng nội bộ đối với PD và sử dụng ước lượng EAD, LGD và M của cơ quan giám sát ngân hàng. Tiếp cận IRB nâng cao, ngân hàng tự ước lượng PD, EAD, LGD và M trên cơ sở được sự phê duyệt và chấp thuận của cơ quan giám sát ngân hàng trước khi áp dụng.

PD: là mức trung bình dài hạn của tỷ lệ không trả được nợ thực tế một năm đối với mỗi người vay.

Theo Basel 2, khoản vay được coi là “không trả được nợ” khi có 1 trong 2 (hoặc cả hai) sự kiện:

- Ngân hàng cho rằng khách hàng không thể thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đúng hạn cho ngân hàng khi chưa tính đến các biện pháp như xử lý TSBĐ.


- Khách hàng có nợ quá hạn trên 90 ngày. Trong đó khoản thấu chi được coi là quá hạn khi khách hàng vi phạm hạn mức tín dụng hoặc hạn mức tín dụng được thông báo sẽ thấp hơn hạn mức thấu chi hiện tại.

Ngân hàng có thể sử dụng kinh nghiệm nội bộ hoặc sử dụng các mô hình chọn mẫu- thống kê để ước lượng với kỳ quan sát trong lịch sử tối thiểu là 5 năm.

EAD: dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ

EAD = Dư nợ thời điểm hiện tại + số vốn dự kiến khách hàng rút thêm trước khi không trả được nợ. Theo phương pháp IRB nâng cao EAD được tính:

EAD = Dư nợ thời điểm hiện tại + LEFxhạn mức dư nợ chưa sử dụng [46]

LEF (Loan Equivalent Factor) là hệ số dư nợ tương đương: là tỷ trọng phần hạn mức chưa sử dụng có nhiều khả năng khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ.

LGD: là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất trên dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. Phần tổn thất được tính bao gồm tổn thất phần vốn, lãi do khách hàng không trả và các chi phí phát sinh do khách hàng không trả nợ. Đối với IRB nâng cao có thể tính LGD như sau:

LGD =

EAD PV (Thuhôi Chiphí)

EAD [46]

Trong đó: PV(thu hồi-chi phí): là giá trị hiện tại của chênh lệch giữa giá trị thu hồi và giá trị chi phí của khoản vay tại thời điểm khách hàng không trả được nợ (Số tiền thu hồi bao gồm số tiền gốc, lãi khách hàng trả và các khoản thu từ xử lý TSBĐ. Chi phí bao gồm tổng các chi phí phát sinh khi khách hàng không trả được nợ như chi phí xử lý TSBĐ, chi phí pháp lý…).

Giá trị thu hồi và chi phí phát sinh khi khách hàng không trả được nợ được tính chiết khấu. Vì vậy tỷ lệ chiết khấu là một trong những yếu tố quan


trọng để ước lượng chính xác LGD. Tỷ lệ chiết khấu về cơ bản phải phản ánh được chi phí của ngân hàng do nắm giữ khoản nợ không có khả năng hoàn trả và phải có “phần thưởng” cho ngân hàng để có thể bù đắp rủi ro của khoản nợ.

M: kỳ hạn hiệu dụng, bản chất là kỳ hạn bình quân của khoản nợ rủi ro. Trường hợp áp dụng IRB nâng cao M thường được tính (nhưng phải thỏa mãn 1≤M≤5):

n

txCFt

n

M = t1

CFt

t 1

Trong đó: CFt là dòng tiền người vay có thể trả cho ngân hàng ở kỳ thứ

t.

Xác định tổn thất dự kiến- EL (Expected Loss) và tổn thất ngoài dự

kiến – UL (Unexpected Loss)[46]

Trên cơ sở các ước lượng PD, LGD, EAD và M, NHTM tính EL và UL cho từng khoản tín dụng.

EL: là mức tổn thất trung bình cho 1 khoản vay trên cơ sở số liệu thống kê trong quá khứ - là tổn thất ngân hàng ước lượng cho 1 khoảng thời gian trong tương lai.

EL = PD x LGD x EAD

UL: là độ lệch chuẩn của tổn thất thực tế so với tổn thất kỳ vọng (EL): UL = σ (EL) = σ (PD x LGD x EAD)

Thông thường với giả định phương sai của EAD và LGD bằng không, UL cho mỗi khoản vay xác định bằng cách đơn giản hơn:

EL( EADxLGD EL)

UL =

EL là tổn thất dự tính về nguyên tắc sẽ đươc bù đắp bởi dự phòng, còn tổn thất ngoài dự tính sẽ được bù đắp bằng vốn của ngân hàng.


Trên cơ cở EL và UL được xác định cho từng khoản tín dụng, Ngân hàng tính EL và UL cho cả danh mục tín dụng.

Với EL, xác định tương đối đơn giản:

N

ELp=

i 1


ELi

Trong đó: ELp là tổn thất dự tính của danh mục p ELi là tổn thất dự tính của khoản vay i N là số khoản vay trong danh mục

Với UL xác định phức tạp hơn do UL của danh mục phải tính đến mối quan hệ tương quan giữa UL của các khoản vay trong danh mục:

ULp=

N

i 1

ijULiULj

N

j 1

Trong đó ρij là hệ số tương quan của khoản vay i và khoản vay j

Basel 2 đề xuất các điều kiện tối thiểu để NHTM tiếp cận phương pháp IRB

- Hệ thống phải đảm bảo hai chiều xếp hạng độc lập: rủi ro vỡ nợ của khách hàng và các yếu tố liên quan đến giao dịch. Đối với rủi ro vỡ nợ của khách hàng phải đảm bảo: (1) Các khoản vay của cùng 1 khách hàng phải xếp chung 1 hạng, không tính đến sự khác nhau về bản chất các giao dịch, (2) Ngân hàng phải qui định cụ thể trong chính sách tín dụng mối quan hệ giữa hạng của khách hàng và mức độ rủi ro cụ thể của mỗi hạng (thể hiện thông qua chỉ tiêu PD và các chỉ tiêu khác được dùng để xác định mức rủi ro). Đối với các yếu tố liên quan đến rủi ro, Basel 2 yêu cầu hạng của khách hàng phải phản ánh được các rủi ro liên quan trực tiếp đến giao dịch như: loại sản phẩm, ưu tiên nợ, TSBĐ, ngành, đặc điểm khách hàng…Ngân hàng có thể thay đổi các nhân tố ảnh hưởng đến xếp hạng với điều kiện họ phải chứng minh được với cơ quan có thẩm quyền sự thay đổi đó làm tăng tính chính xác của ước lượng.


- Phải có hệ thống cơ sở dữ liệu để theo dõi đáng tin cậy và phải chứng minh đã sử dụng hệ thống đánh giá phù hợp với yêu cầu tối thiểu của Basel ít nhất 3 năm trước đó. Trường hợp sử dụng IRB nâng cao ngân hàng phải chứng minh đã ước tính và sử dụng LGD và EAD theo cách thức thống nhất với yêu cầu tối thiểu để được sử dụng các ước lượng LGD và EAD nội bộ ít nhất 3 năm trước khi đủ tiêu chuẩn.

- Phải có hệ thống kiểm chứng các ước lượng nội bộ để kiểm chứng tính chính xác và thống nhất của hệ thống xếp hạng, của quy trình thực hiện và các ước lượng rủi ro. Ngân hàng phải chứng minh được với cơ quan có thẩm quyền rằng qui trình kiểm chứng của họ có khả năng đánh giá được hoạt động của hệ thống xếp hạng và hệ thống các ước lượng rủi ro một cách thống nhất và có ý nghĩa. Phải đảm bảo độ lệch giữa số liệu thực tế và ước lượng nằm trong phạm vi dự kiến. Ngân hàng phải có tiêu chuẩn nội bộ cho trường hợp ước lượng sai lệch quá lớn so với thực tế đến mức cần phải kiểm định lại tính chính xác của ước lượng.

Đo lường rủi ro danh mục tín dụng

Basel 2 khuyến khích các NHTM sử dụng khung VAR (Value at Risk) để xác định vốn kinh tế và rủi ro của danh mục tín dụng. Sử dụng khung VAR thực chất là các NHTM sử dụng các công cụ toán học, thống kê để xác định mức tổn thất tối đa ở tình huống xấu nhất trong một khoảng thời gian xác định với độ tin cậy định trước. Mục đích của sử dụng khung VAR là để ngân hàng xác định UL của danh mục tín dụng cũng như UL tổng thể của ngân hàng. Hiện nay hầu hết các NHTM tại các nước phát triển đều sử dụng các mô hình lượng hóa VAR tín dụng như: CreditMetrics của JP Morgan, PorfolioManager của KMV, CreditRisk+ của Credit Suise, CreditPorfolioView của McKinsey…Việc lựa chọn mô hình nào tùy vào đặc


điểm danh mục tín dụng và hệ thống hạ tầng đo lường RRTD của từng ngân hàng.

Xác định Vốn kinh tế và dự phòng RRTD

Theo Basel 2, EL sẽ được tính vào chi phí của ngân hàng (bù đắp bằng dự phòng rủi ro), UL được bù đắp bằng vốn (vốn kinh tế) của ngân hàng. Chính vì vậy, mục đích cuối cùng của việc xác định EL và UL là xác định vốn kinh tế và dự phòng RRTD.

◦ Xác định vốn kinh tế

Vốn kinh tế được hiểu là phần vốn cần có để bù đắp cho những tổn thất ngoài dự kiến (UL) do rủi ro gây ra trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Basel 2 khuyến nghị các ngân hàng cần tính phần vốn tối thiểu cho từng loại rủi ro. Đối với RRTD, trên cơ sở xác định UL của danh mục tín dụng, ngân hàng phải đảm bảo đủ vốn kinh tế để bù đắp cho UL đã được xác định.

Theo trụ cột 1 của Basel 2, vốn kinh tế tối thiểu cần thiết để bù đắp cho rủi ro tín dụng = RWARủi ro tín dụngx 8%

Trong đó: RWARủi ro tín dụng: Tài sản có điều chỉnh theo RRTD (RWARủi ro tín

dụng = Tài sản có x Hệ số rủi ro)

Hệ số rủi ro trong cách tiếp cận chuẩn hóa được xác định căn cứ vào 2 yếu tố là nhóm khách hàng vay và hạng tín nhiệm của khách hàng (cung cấp bởi tổ chức xếp hạng bên ngoài).

Nếu tiếp cận theo phương pháp IRB, RWARủi ro tín dụng được tính trên cơ sở các yếu tố đầu vào là: PD, LGD, EAD, M, ρ- hệ số tương quan, b- kỳ hạn điều chỉnh và CI- khoảng tin cậy sử dụng để tính vốn kinh tế (phụ lục 1.1).

Theo trụ cột 2 của Basel 2, cùng với việc đảm bảo vốn theo trụ cột 1, NHTM cần xây dựng qui trình đánh giá mức vốn nội bộ (The Internal Capital Adequacy Asessment Process-ICAAP) để đảm bảo vốn của ngân hàng được đánh giá đầy đủ, chính xác. Trụ cột 2 khuyến khích ngân hàng nên duy trì vốn

Xem tất cả 241 trang.

Ngày đăng: 05/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí