học, công nghệ, am hiểu về quản trị rủi ro để có thể tiếp thu kiến thức và vận dụng tốt trong quá trình triển khai Basel 2.
Tuyển dụng nhân sự mới: Đối với một số vị trí chủ chốt cần trình độ chuyên môn cao hoặc để thành lập ngay nhóm chuyên trách, ngân hàng có thể tổ chức tuyển dụng theo yêu cầu công việc để lựa chọn nhân sự có trình độ, đặc biệt có kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về thực hiện Basel 2.
Kèm cặp nhân sự: Theo khảo sát của NCS, hình thức kèm cặp chưa được chú trọng tại Agribank (chỉ có 8,07% ý kiến cho rằng cán bộ được nâng cao trình độ bằng hình thức kèm cặp). Trong khi biện pháp này có những ưu điểm như: giúp cho người được kèm cặp tiếp cận công việc trực tiếp, dễ dàng và giảm chi phí đào tạo…Việc kèm cặp phải được thực hiện thông qua hướng dẫn nghiệp vụ tại từng chi nhánh giữa người đi trước, có chuyên môn sâu với người mới được tuyển dụng, giữa người am hiểu sâu nghiệp vụ với những người còn hạn chế về nghiệp vụ. Đối với các nhân viên mới tuyển dụng hoặc đã có thời gian công tác song kỹ năng còn hạn chế nhưng rất có ý thức cầu thị trong công việc Agribank cần bố trí, sắp xếp để họ được những người thành thạo kỹ năng, có kinh nghiệm kèm cặp trực tiếp. Để thực hiện điều này, tại mỗi vị trí công việc, Agribank cần phải có những người giỏi kỹ năng nghiệp vụ, có khả năng về diễn giải, hướng dẫn qui trình nghiệp vụ và nhiệt huyết với công việc để việc kèm cặp không chỉ đơn thuần là hướng dẫn nghiệp vụ mà người kèm cặp phải truyền được sự nhiệt huyết, trách nhiệm trong công việc của mình với người được kèm cặp.
Cùng với việc sắp xếp, đào tạo nhân sự, ngân hàng cần tạo môi trường làm việc lành mạnh, nhân viên yên tâm làm việc thông qua việc tăng cường kỷ luật lao động, áp dụng chế độ thưởng phạt công minh, kịp thời, lương thưởng căn cứ vào năng suất và chất lượng công việc, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
3.3.1.3 Hoàn thiện các văn bản nội bộ về quản trị rủi ro tín dụngAgribank cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản nội bộ về quản
trị RRTD để kịp thời qui định, hướng dẫn cụ thể việc vận hành mô hình đã đề xuất. Trong đó cần tập trung vào các nội dung chính:
- Hoàn thiện các qui trình, thủ tục về cấp tín dụng, kiểm tra- giám sát tín dụng, KT-KSNB, KToNB, nhận diện, đo lường, kiểm soát, giám sát và báo cáo RRTD, đảm bảo sự độc lập giữa các chức năng: giao dịch, thẩm định, phê duyệt và đánh giá lại tín dụng, giữa chức năng bán hàng, quản lý RRTD, KT-KSNB, KToNB theo mô hình đề xuất. Trong đó qui trình, thủ tục cấp tín dụng, kiểm tra-giám sát tín dụng, nhận diện, đo lường, kiểm soát, giám sát và báo cáo RRTD giao cho bộ phận Ban hành cơ chế chính sách thuộc Khối quản lý rủi ro tại TSC phối hợp với các bộ phận liên quan nghiên cứu và đề xuất, HĐTV là người chịu trách nhiệm cuối cùng trong việc phê duyệt. Qui trình thủ tục KT-KSNB giao cho bộ phận KToNB nghiên cứu và đề xuất, HĐTV chịu trách nhiệm phê duyệt.
- Xây dựng và ban hành cơ chế phối hợp giữa bộ phận quan hệ khách hàng, quản lý RRTD và KT-KSNB. Đảm bảo tại từng đơn vị kinh doanh cũng như tại TSC, các bộ phận có thể phối hợp, hỗ trợ, trao đổi thông tin trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ song vẫn đảm bảo sự độc lập, không xảy ra xung đột lợi ích.
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng Triển Khai Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Theo Basel 2 Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Định Hướng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Theo Hiệp Ước Basel 2 Tại Agribank
- Đề Xuất Mô Hình Tổ Chức Bộ Máy Quản Trị Rrtd Tại Agribank Tổng Giám Đốc: Chịu Sự Chỉ Đạo, Điều Hành Trực Tiếp Từ Hđtv Trong
- Duy Trì Tăng Trưởng Tín Dụng Hợp Lý Trên Cơ Sở Kiểm Soát Chất Lượng Các Khoản Cho Vay Mới
- Tăng Vốn Tự Có Đảm Bảo Hệ Số An Toàn Vốn Theo Qui Định Của Nhnn
- Xây Dựng Qui Trình Đánh Giá Mức Độ Đầy Đủ Vốn Nội Bộ (Icaap) Đối Với Rủi Ro Tín Dụng
Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.
- Nghiên cứu và ban hành Khung quản trị RRTD. Khung quản trị RRTD được coi là văn bản chính thức qui định những vấn đề cơ bản về chức năng, nhiệm vụ và cơ chế thực hiện quản trị RRTD của một ngân hàng. Vì vậy, Agribank cần triển khai xây dựng và ban hành Khung quản trị RRTD, là cơ sở để việc quản trị RRTD trong toàn hệ thống được qui định cụ thể, rõ ràng và thống nhất. Khung quản trị RRTD phải làm rõ các vấn đề cơ bản: mục tiêu, nguyên tắc quản trị RRTD, tổ chức bộ máy quản trị RRTD, chiến lược
và khẩu vị RRTD, cơ chế nhận diện, đo lường, kiểm soát, giám sát và báo cáo RRTD của Agribank để đảm bảo có tính ổn định, phù hợp với cơ cấu, chức năng và cơ chế vận hành các Khối chức năng đã được thiết lập.
3.3.1.4 Nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu
Một là: Minh bạch các khoản nợ nói chung, nợ xấu nói riêng
- Rà soát, đánh giá lại từng khoản tín dụng
Việc đánh giá lại phải trên cơ sở cập nhật thông tin có tác động đến năng lực trả nợ của khách hàng. Đặc biệt, ngân hàng cần quan tâm thích đáng đến việc cập nhật, phân tích, đánh giá các thông tin về triển vọng phát triển của ngành nghề, sự biến động của môi trường kinh doanh (môi trường kinh tế, chính trị, pháp lý, xã hội…). Việc đánh giá lại cần làm rõ các vấn đề: khả năng khôi phục sản xuất kinh doanh, năng lực trả nợ của khách hàng, tình trạng TSBĐ, nguyên nhân phát sinh rủi ro. Đối với các khoản nợ đã được cơ cấu lại (bao gồm nợ cơ cấu lại theo Quyết định 780/QĐ-NHNN) phải theo dõi chặt chẽ và có phương án xử lý thích hợp. Các khoản nợ đã được cơ cấu lại nhưng kết quả kinh doanh hạn chế, khả năng trả nợ không được cải thiện, ngân hàng cần mạnh dạn chuyển vào nhóm nợ phản ánh đầy đủ rủi ro để quản lý và có phương án xử lý hiệu quả.
- Tuân thủ phân loại nợ, trích đúng và đủ dự phòng theo qui định hiện hành
Trên cơ sở rà soát, đánh giá lại rủi ro từng khoản nợ, ngân hàng cần minh bạch và tuân thủ việc phân loại nợ theo qui định của NHNN. Đảm bảo việc phân loại nợ phản ánh đầy đủ RRTD từ khách hàng. Cùng với kết quả phân loại nợ, ngân hàng cần tuân thủ qui định về trích dự phòng cho từng nhóm nợ. Việc trích đúng và đủ dự phòng là cơ sở quan trọng để ngân hàng xử lý các khoản nợ có khả năng mất vốn. Thực hiện điều này đòi hỏi phải có quan điểm và tư tưởng thống nhất từ Ban lãnh đạo đến từng nhân viên của Agribank.
Ban lãnh đạo phải nhận thức được và quán triệt quan điểm: coi minh bạch thông tin là nghĩa vụ của ngân hàng và dự phòng là nguồn quan trọng để xử lý rủi ro. Tránh tâm lý sợ tăng chi phí, giảm lợi nhuận kinh doanh cũng như muốn che dấu số liệu nợ xấu thực như thời gian qua. Đối với các khoản nợ xấu cần thường xuyên đánh giá lại, nắm bắt kịp thời mức độ rủi ro để trích đủ dự phòng.
Hai là: Xử lý nợ xấu phù hợp với đặc thù từng khoản nợ xấu
- Áp dụng các biện pháp khai thác nợ: đối với những khách hàng có triển vọng phục hồi sản xuất kinh doanh, tạo nguồn thu để trả nợ ngân hàng cần mạnh dạn cơ cấu lại nợ (điều chỉnh kỳ hạn, gia hạn nợ), miễn-giảm lãi tiền vay hoặc cho vay thêm duy trì sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên giải pháp này cần thực hiện một cách thận trọng trên cơ sở các đánh giá toàn diện năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng phục hồi sản xuất cũng như năng lực tài chính. Việc đánh giá khả năng phục hồi năng lực trả nợ phải trên cơ sở các số liệu, phân tích, lập luận có cơ sở khoa học và tin cậy. Đặc biệt là việc cơ cấu lại nợ phải tránh tư tưởng coi đó là một biện pháp để che dấu nợ xấu và vì vậy không quan tâm một cách thích đáng về triển vọng phục hồi năng lực trả nợ khi quyết định cơ cấu lại. Các khoản nợ đã được cơ cấu lại, miễn giảm lãi, cho vay thêm cũng phải được kiểm soát chặt chẽ. Trong trường hợp cần thiết, ngân hàng có thể yêu cần khách hàng bổ sung TSĐB (TSĐB bị giảm giá trị, không đủ giá trị do khách hàng vay thêm). Trong trường hợp khách hàng không có dấu hiệu phục hồi năng lực sản xuất, rủi ro có nguy cơ gia tăng phải báo cáo lên cấp có thẩm quyền để có biện pháp xử lý kịp thời và thích hợp.
- Xử lý tài sản đảm bảo
Agribank cần rà soát, đánh giá lại TSĐB đối với các khoản nợ xấu có TSBĐ và không thuộc diện được xử lý bằng biện pháp khai thác nợ. Trong trường hợp TSBĐ có thể xử lý để thu nợ, ngân hàng cần chủ động phối hợp
với khách hàng để hoàn thiện hồ sơ, đồng thời phối hợp với Cơ quan chức năng, Chính quyền địa phương (nếu cần thiết) để hoàn thành các thủ tục pháp lý và phát mại. Tùy đặc điểm từng loại TSBĐ, ngân hàng cần chủ động phối hợp với các bên liên quan để lựa chọn hình thức xử lý phù hợp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ngân hàng và khách hàng.
- Xử lý bằng dự phòng rủi ro
Đối với nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) và nợ của khách hàng là doanh nghiệp giải thể, phá sản, cá nhân chết, mất tích- là những khoản nợ không còn khả năng thu hồi, Ngân hàng cần tập trung xử lý bằng dự phòng rủi ro nhằm giảm thiểu tổn thất tín dụng. Trên cơ sở nguồn dự phòng được trích lập đầy đủ, Agribank cần đẩy nhanh việc xử lý bằng dự phòng. Các khoản nợ đã sử dụng dự phòng, Agribank cần giao trách nhiệm cụ thể cho cán bộ kiểm tra, theo dõi chặt chẽ khách hàng vay để cố gắng tận thu nợ sau khi đã xử lý rủi ro.
- Bán nợ xấu.
Trong trường hợp các khoản nợ xấu có TSBĐ, TSBĐ có khả năng phát mại để thu nợ, ngân hàng nên chủ động chào bán cho các đơn vị chuyên mua nợ như Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của Doanh nghiệp (DATC), VAMC, hoặc các đơn vị mua bán nợ khác. Do đặc điểm các khoản nợ xấu là khả năng thu hồi rất thấp. Vì vậy, để hạn chế những rủi ro phát sinh trong việc bán nợ xấu, khi bán nợ Agribank cần cân nhắc kỹ các vấn đề phát sinh:
Đối tác mua nợ:Theo qui định hiện nay, nợ xấu của Agribank có thể bán cho các đối tác: VAMC, DAT và Công ty mua bán nợ của Agribank. Tuy nhiên mỗi đối tác do đặc điểm và mục tiêu hoạt động khác nhau nên khả năng và đặc điểm mua nợ cũng rất khác nhau. Vì vậy khi quyết định bán nợ tùy từng khoản nợ xấu mà Agribank cần lựa chọn đối tác phù hợp.
Giá bán nợ xấu: Thông thường bán các khoản nợ xấu bên bán sẽ phải chấp nhận giá thấp. Tuy nhiên ngân hàng cần cân nhắc, xem xét về cơ chế xác định giá bán và các điều kiện liên quan đi kèm. Vì các điều kiện đi kèm có thể làm phát sinh các rủi ro trong việc bán nợ.
Phương thức bán: bán theo phương thức “bán đứt”- bên bán chuyển hoàn toàn RRTD cho bên mua hay bán bảo lưu quyền truy đòi. Trong trường hợp bán có bảo lưu quyền truy đòi, ngân hàng cần xem xét đến khả năng bị truy đòi lại khoản nợ từ bên mua và phương án xử lý.
Việc bán nợ phải theo nguyên tắc thị trường để đảm bảo quyền lợi cho cả bên mua và bên bán. Về lâu dài khi đủ cơ sở pháp lý và các điều kiện cần thiết, Agribank có thể nghiên cứu và tiến hành xử lý thông qua chứng khoán hóa các khoản nợ hoặc phái sinh tín dụng.
- Chuyển nợ thành vốn góp: Biện pháp này tuy không mới nhưng hiện nay Agribank cũng như các NHTM khác không thật sự mặn mà do còn nhiều vướng mắc về cơ chế chính sách, quyền lợi các bên liên quan đặc biệt là quyền lợi của ngân hàng chưa được đảm bảo. Tuy nhiên, sử dụng biện pháp này nếu khôi phục được năng lực sản xuất kinh doanh của con nợ thì có thể coi là một trong những biện pháp xử lý nợ xấu triệt để, mang lại lợi ích thiết thực cho ngân hàng, Doanh nghiệp và nền kinh tế.
Trong thời gian tới, Agribank cần mạnh dạn hơn trong việc xử lý nợ xấu thông qua chuyển nợ thành vốn góp. Để biện pháp này thực sự hiệu quả, Agribank cần xử lý các vấn đề cơ bản:
Đối tượng xử lý: chỉ áp dụng đối với các khoản nợ xấu mà con nợ được đánh giá có thể khôi phục năng lực sản xuất kinh doanh sau khi xử lý. Quá trình chuyển nợ thành vốn góp gắn liền với quá trình tái cơ cấu Doanh nghiệp do có sự thay đổi về cơ cấu, thành phần chủ sở hữu Doanh nghiệp. Vì vậy, khi áp dụng biện pháp này cần đánh giá khách quan, đầy đủ về khả năng, hiệu quả
tái cơ cấu doanh nghiệp và tác động của nó đến việc khôi phục năng lực sản xuất kinh doanh sau khi xử lý nợ xấu.
Agribank phải xác định việc chuyển nợ thành vốn góp không đơn thuần là việc xử lý một khoản nợ xấu mà Agribank cần chủ động tham gia vào quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp sau khi xử lý nợ xấu. Vì vậy, sau khi chuyển nợ thành vốn góp, Agribank cần đồng hành với Doanh nghiệp, có các biện pháp hỗ trợ cần thiết để Doanh nghiệp khôi phục hoạt động kinh doanh như: cho vay thêm vốn, tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật trong quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp…
Khi xem xét để xử lý, trước mắt Agribank cần mời chuyên gia trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp để cùng với Agribank thẩm định doanh nghiệp trước khi quyết định xử lý và đồng hành cùng Agribank tham gia vào quá trình tái cơ cấu Doanh nghiệp. Về lâu dài, Agribank cần xây dựng cho mình một đội ngũ nhân sự có chuyên môn về quản trị doanh nghiệp và tái cơ cấu doanh nghiệp để đảm bảo tính chủ động và hiệu quả khi áp dụng biện pháp này.
- Phối hợp với VAMC xử lý các khoản nợ đã bán cho VAMC: Các khoản nợ đã bán cho VAMC thực chất Agribank vẫn chưa hoàn toàn loại bỏ rủi ro. Vì vậy, Agribank cần chủ động phối hợp với VAMC trong việc thu hồi nợ. Trong trường hợp các khoản nợ này chưa xử lý, Agribank cần thường xuyên nắm bắt thông tin về khách hàng vay và chủ động trao đổi thông tin với VAMC nhằm bổ sung thông tin khách hàng để VAMC theo dõi và xử lý. Trong quá trình VAMC xử lý nợ, Agribank cần chủ động phối hợp, hỗ trợ để việc xử lý đạt hiệu quả.
- Khởi kiện tòa án để thu nợ
Đối với các khoản nợ không thể thu hồi do sự bất hợp tác của khách hàng vay. Ngân hàng cần đề nghị cơ quan nhà nước can thiệp để thu nợ. Trường
hợp này, Agribank nên tham khảo ý kiến chuyên gia pháp luật để quá trình chuẩn bị các thủ tục khởi kiện được nhanh chóng và đảm bảo quyền đòi nợ hợp pháp của mình.
3.3.1.5 Sắp xếp lại mạng lưới và tiết giảm chi phí hoạt động trong toàn hệ thống
a, Sắp xếp lại mạng lưới Chi nhánh, phòng giao dịch của Agribank
Sắp xếp lại mạng lưới hoạt động vừa để đảm bảo mạng lưới đáp ứng nhu cầu thị trường đồng thời giảm thiểu chi phí hoạt động, tập trung nguồn lực cho xử lý nợ xấu và triển khai Basel 2.
Agribank cần rà soát, đánh giá lại toàn bộ hiệu quả hoạt động của từng chi nhánh, phòng giao dịch trong toàn hệ thống. Trên cơ sở đó cơ cấu lại mạng lưới hoạt động theo hướng phù hợp với cầu thị trường, tránh dàn trải theo khu vực địa lý như hiện nay. Hiện nay NHNN đã ban hành văn bản hợp nhất số 16/VBHN-NHNN ngày 13/01/2013 “qui định về mạng lưới hoạt động của NHTM”. Như vậy, Agribank có đầy đủ cơ sở pháp lý để cơ cấu lại mạng lưới. Theo đó các chi nhánh, phòng giao dịch hoạt động kém hiệu quả, đặt tại các khu vực cầu dịch vụ quá thấp cần cơ cấu lại theo hướng sáp nhập với các Chi nhánh, phòng giao dịch khác hoạt động hiệu quả, cầu dịch vụ lớn hoặc loại bỏ.
b, Thoái vốn tại các công ty con, công ty liên kết, TCTD khác hoạt động kém hiệu quả.
Việc đầu tư dàn trải vào các công ty con, công ty liên kết vừa làm phân tán nguồn lực, tăng nguy cơ sở hữu chéo, đặc biệt việc đầu tư vốn vào các đơn vị làm ăn kém hiệu quả sẽ làm tăng chi phí, giảm tỷ suất sinh lời của vốn. Về mặt quản lý nhà nước, hiện nay Thông tư 36/2014/TT-NHNN [22] đã có hiệu lực. Theo thông tư này, NHNN thực hiện thắt chặt việc đầu tư vốn vào các công ty con, công ty liên kết, các TCTD khác. Trên cơ sở qui định pháp