Định Hướng Triển Khai Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Theo Basel 2 Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam


Từ đánh giá thực trạng quản trị RRTD tại Agribank giai đoạn 2010- 2015, đối chiếu với nội dung quản trị RRTD của Basel 2, có thể thấy mức độ đáp ứng Basel 2 về quản trị RRTD tại Agribank như sau:

Về chiến lược, khẩu vị RRTD và chính sách quản trị RRTD: tại Agribank đã quan tâm đến việc xác định, đánh giá lại hàng năm chiến lược và khẩu vị RRTD, trên cơ sở đó ban hành chính sách quản trị RRTD, trong đó HĐTV chịu trách nhiệm phê duyệt cuối cùng. Tuy nhiên, việc xây dựng chiến lược, xác định khẩu vị RRTD và thiết lập chính sách quản trị RRTD do Tổng Giám đốc phối hợp với các Ban tín dụng thực hiện là chưa đảm bảo sự phân tách giữa chức năng kinh doanh và chức năng quản lý RRTD theo khuyến nghị của Basel 2, điều này dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”.

Về tổ chức bộ máy quản trị RRTD: tại Agribank đã thiết lập được các chức năng cơ bản của hệ thống quản trị RRTD theo Basel 2: chức năng bán hàng, chức năng quản lý RRTD, chức năng KT-KSNB, chức năng KToNB. Qui trình cấp tín dụng đã thực hiện đầy đủ các chức năng: chức năng giao dịch, chức năng thẩm định, chức năng phê duyệt và chức năng đánh giá lại tín dụng. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị RRTD tại Agribank chưa tuân thủ các nguyên tắc quản trị RRTD của Ủy ban Basel và các yêu cầu của Basel 2, cụ thể: Tại các chi nhánh, CBTD vừa thực hiện chức năng kinh doanh (giao dịch, thẩm định) và chức năng quản lý RRTD (đo lường, đánh giá, giám sát và xử lý RRTD). Tại TSC, các Ban tín dụng vừa thực hiện chức năng của Khối kinh doanh (nghiên cứu thị trường, sản phẩm…) vừa thực hiện chức năng quản lý RRTD (xây dựng và xác định chiến lược, khẩu vị RRTD, ban hành qui trình, thủ tục quản trị RRTD), KT-KSNB chưa thực hiện giám sát hàng ngày mọi hoạt động liên quan (chưa thực hiện kiểm tra, giám sát tại chi nhánh cấp 3), KToNB chưa thiết lập mạng lưới tại các Chi nhánh.


Về qui trình và thủ tục quản trị RRTD: (i) Nhận diện RRTD: thiếu các công cụ hỗ trợ như hệ thống cảnh báo sớm, hệ thống Stress-Testing RRTD trong khi XHTDNB còn kém hiệu quả, chưa thực sự hỗ trợ tích cực cho việc nhận diện RRTD nên việc nhận diện RRTD còn thiếu chính xác, chủ yếu mới dừng lại ở nhận diện RRTD hiện hữu, khả năng nhận diện các RRTD có khả năng phát sinh còn yếu. (ii) Đo lường, đánh giá RRTD: chưa định lượng được các yếu tố cấu thành rủi ro theo đề xuất của Basel 2 (bao gồm PD, LGD, EAD, M, EL và UL), mỗi hạng của khách hàng chưa được mô tả cụ thể về khả năng không trả được nợ và các thông tin liên quan. Đặc biệt đối với danh mục tín dụng, Agribank chưa tiếp cận với các mô hình định lượng RRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel 2 như mô hình RAROC, mô hình VAR. Vì vậy, về cơ bản mức trích dự phòng RRTD và đảm bảo vốn cho RRTD chưa được tuân thủ theo Basel 2. (iii) Kiểm soát RRTD: thiếu các công cụ, các kỹ thuật hỗ trợ kiểm soát RRTD (tại Agribank chưa sử dụng kỹ thuật chứng khoán hóa các khoản nợ, phái sinh tín dụng…), trong khi đó các công cụ, kỹ thuật được sử dụng (công cụ tiêu chuẩn, giới hạn cấp tín dụng, kỹ thuật: thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh tín dụng..) được sử dụng nhưng chưa tuân thủ các nguyên tắc của Basel 2 nên hiệu quả kiểm soát thấp. (iiii) Giám sát và báo cáo RRTD: chưa thực hiện công khai thông tin theo trụ cột 3 nên chưa thực hiện giám sát RRTD qua các chủ thể tham gia thị trường, giám sát của bộ phận quản lý nợ chưa có sự độc lập với bộ phận kinh doanh nên dễ xảy ra xung đột lợi ích, KT-KSNB kém hiệu quả. Giám sát RRTD vì vậy cơ bản chưa đáp ứng yêu cầu Basel 2.

Như vậy có thể thấy, quản trị RRTD tại Agribank về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu của Basel 2. Thực trạng này một phần do hệ thống văn bản pháp lý, chủ trương của Nhà nước chưa thực sự tạo điều kiện cho Agribank tuân thủ Basel 2. Bên cạnh đó, hệ thống quản trị RRTD tại Agribank còn


nhiều bất cập, gây cản trở cho việc áp dụng Basel 2 như: thiếu hạ tầng công nghệ quản trị RRTD, cơ sở dữ liệu thiếu cả về chất và lượng, hệ thống XHTDNB kém hiệu quả, đội ngũ cán bộ còn thiếu và yếu theo yêu cầu của Basel 2. Một thực tế là những năm gần đây, chất lượng tài sản có suy giảm mạnh tác động không nhỏ đến kết quả kinh doanh, cản trở việc Agribank tích lũy nguồn lực cho việc đầu tư hạn tầng quản trị RRTD.‌


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trên cơ sở những vấn đề cơ bản về quản trị RRTD theo Basel 2 đã đề cập ở chương 1, NCS đã đánh giá thực trạng quản trị RRTD tại Agribank giai đoạn 2010-2015. Để đánh giá đúng thực trạng quản trị RRTD tại Agribank, NCS đã kết hợp kết quả khảo sát bằng bảng hỏi, phỏng vấn chuyên gia và thu thập dữ liệu thứ cấp giai đoạn 2010-2015 tại Agribank về các vấn đề: chiến lược và khẩu vị RRTD, tổ chức bộ máy quản trị RRTD, chính sách quản trị RRTD, qui trình và thủ tục quản trị RRTD. Từ đó đánh giá các kết quả đạt được, các hạn chế và nguyên nhân các hạn chế, chỉ ra mức độ đáp ứng các chuẩn mực Basel 2 về quản trị RRTD tại Agribank. Kết quả đánh giá chương 2 là cơ sở để NCS đề xuất các giải pháp trong chương 3 với mục tiêu cuối năm 2020, Agribank đạt chuẩn Basel 2 về quản trị RRTD.

Quản trị rủi ro tín dụng theo Hiệp ước Basel 2 tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 17


Chương 3‌‌‌‌

GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG THEO HIỆP ƯỚC BASEL 2 TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM


3.1 ĐỊNH HƯỚNG TRIỂN KHAI QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG THEO BASEL 2 TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM

3.1.1 Định hướng của Ngân hàng Nhà nước trong việc triển khai áp dụng Basel 2 tại các Ngân hàng Thương mại Việt nam đến năm 2020.

Trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng đòi hỏi các NHTM phải hoạt động an toàn, phát triển bền vững để có thể cạnh tranh bình đẳng với các NHTM trong khu vực và trên thế giới. Nhận định được vấn đề này, NHNN đã xây dựng chiến lược phát triển ngành ngân hàng với mục tiêu cơ bản đến 2020 hệ thống các Tổ chức tín dụng Việt nam nói chung, NHTM Việt nam nói riêng có cấu trúc hợp lý, hoạt động đa năng, an toàn, lành mạnh, vững chắc, khả năng cạnh tranh cao, có thể đứng vững trong quá trình hội nhập quốc tế.

Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đến năm 2020 được hiện thực hóa bằng Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các Tổ chức tín dụng giai đoạn 2011- 2015” (theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 của Thủ Tướng Chính Phủ) và Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các Tổ chức tín dụng” (theo Quyết định số 834/QĐ-TTg ngày 31/05/2013 của Thủ Tướng Chính Phủ). Tính đến 31/12/ 2015, việc thực hiện 2 Đề án đã mang lại những kết quả khả quan: tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống đã giảm xuống còn 2,52%, tỷ lệ an toàn vốn toàn hệ thống đạt 13,0%, tăng trưởng tín dụng 17,29%, chất lượng hoạt động, khả năng thanh khoản của các NHTM Việt nam từng bước được cải thiện, xử


lý được một số NHTM yếu kém, không để xảy ra đổ vỡ, từng bước giảm bớt số lượng các NHTM thông qua việc mua bán, sáp nhập[71].

Cùng với 2 Đề án trên, để tăng cường năng lực quản trị rủi ro tại các

NHTM Việt nam, NHNN đã xác định lộ trình triển khai Basel 2: 10 ngân hàng được chọn thí điểm triển khai Basel 2 trong năm 2014 phải thành lập nhóm chuyên trách triển khai Basel 2, triển khai phân tích, đánh giá mức độ chênh lệch và xây dựng kế hoạch tổng thể triển khai Basel 2. Giai đoạn 2014- 2015 nhóm ngân hàng thí điểm phát triển hệ thống quản lý rủi ro bao gồm: hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, các mô hình đo lường rủi ro, các chính sách và qui trình quản trị rủi ro, hệ thống cơ sở dữ liệu và hạ tầng công nghệ thông tin theo qui định của NHNN và các yêu cầu của Basel 2 cũng như kế hoạch triển khai tổng thể của ngân hàng. Các NHTM khác không nằm trong nhóm thí điểm phải xây dựng kế hoạch triển khai Basel 2, đảm bảo cuối 2018 thực hiện phương pháp cơ bản.

Tính đến 31/12/2015, 10 NHTM được lựa chọn đã hoàn thành việc đánh giá khoảng cách theo Basel 2 và đang tích cực triển khai thực hiện Basel 2 theo lộ trình. Về phía NHNN, “Thông tư hướng dẫn về tỷ lệ an toàn vốn đối với các ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài” theo Basel 2 đã được xây dựng và hoàn thành việc lấy ý kiến cho dự thảo, dự kiến ban hành và có hiệu lực vào giữa năm 2016.

Để đạt mục tiêu của NHNN về triển khai Basel 2 đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực của mỗi NHTM mà cần sự chỉ đạo, giám sát chặt chẽ của NHNN để kịp thời tháo gỡ khó khăn trong quá trình các NHTM thực hiện.


3.1.2 Cơ hội và thách thức khi Agribank triển khai quản trị rủi ro tín dụng theo Basel 2‌‌

3.1.2.1 Cơ hội

- Hội nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực và thế giới là cơ hội để Agribank cải thiện năng lực quản trị RRTD, từ đó có thể triển khai Basel 2 thành công

Nền kinh tế Việt nam hội nhập ngày càng sâu, rộng với nền kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, sau khi Hiệp định Đối tác kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) được ký kết (ngày 5/10/2015) và chính thức thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN-AEC- (ngày 31/12/2015), tự do hóa thương mại giữa các nước thành viên TPP, thành viên AEC sẽ được thực hiện theo lộ trình. Bên cạnh đó, Việt Nam còn tham gia Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á với tư cách là thành viên sáng lập. Đây sẽ là cơ hội để Agribank tiếp cận với nguồn vốn nước ngoài, khai thác cơ hội đầu tư, tiếp thu công nghệ hiện đại, học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm về quản lý, đặc biệt là quản lý rủi ro từ các định chế tài chính lớn. Vì vậy, hội nhập sẽ tạo cơ hội cho Agribank có thể nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, cải thiện năng lực tài chính, tăng cường và đổi mới toàn diện quản trị rủi ro, đặc biệt là RRTD. Sự cải thiện về hiệu quả kinh doanh và năng lực quản trị RRTD sẽ giúp Agribank vừa có cơ hội tích lũy nguồn lực cho đầu tư vốn, công nghệ, nhân sự để triển khai Basel 2, đồng thời năng lực quản trị RRTD được cải thiện, tiến dần tới các thông lệ quốc tế là cơ sở quan trọng để Agribank triển khai áp dụng Basel 2 thành công.

- Nền kinh tế tăng trưởng ổn định là cơ hội để Agribank triển khai Basel 2

Những năm gần đây, kinh tế thế giới suy thoái trên diện rộng, trong khi đó, kinh tế Việt nam vẫn được đánh giá là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng


tương đối cao và ổn định. Vì vậy, nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế vẫn khá lớn, tiềm năng phát triển hoạt động tín dụng của các NHTM nói chung và Agribank nói riêng khá tốt. Đây cũng là cơ hội quan trọng Agribank cần nắm bắt để tiếp cận khách hàng, mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, tạo nền tảng vững chắc cho việc triển khai quản trị RRTD theo Basel 2 hiệu quả.‌

- Vai trò không thể thay thế trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân là cơ hội để Agribank nâng cao thu nhập từ hoạt động tín dụng.

Việt nam là một nước nông nghiệp, khoảng 70% dân số là nông dân với mức đóng góp khoảng 18%/ năm vào GDP (theo công bố của tổng cục thống kê năm 2014). Nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực luôn được Nhà nước coi trọng, quan tâm và đầu tư phát triển. Vì vậy, là ngân hàng thực hiện sứ mệnh phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn mà không thể NHTM nào thay thế, Agribank có một thị trường rộng lớn, tiềm năng để phát triển, đặc biệt là thị trường tín dụng. Đây có thể nói là cơ hội riêng có của Agribank để phát triển hoạt động tín dụng, từ đó có cơ hội nâng cao thu nhập từ hoạt động tín dụng, tăng khả năng tích lũy vốn cho đầu tư triển khai Basel 2.

- Có quan hệ chặt chẽ với Chính quyền địa phương, các Tổ chức chính trị-xã hội là cơ hội để Agribank nâng cao hiệu quả kiểm soát RRTD, đặc biệt là xử lý nợ xấu.

Thông qua các hoạt động phục vụ lĩnh vực nông nghiệp-nông thôn, trong đó một phần là tín dụng chính sách, Agribank có mối quan hệ khá chặt chẽ với Chính quyền và các Tổ chức chính trị-xã hội tại địa phương. Vì vậy, Agribank có thể tận dụng sự hậu thuẫn đáng kể từ chính quyền, Tổ chức chính trị xã hội tại địa phương trong việc quản lý khoản vay nói chung và xử lý nợ xấu nói riêng của ngân hàng, kiểm soát tốt RRTD.

3.1.2.2 Thách thức

- Hội nhập với kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới


Hội nhập vừa mang lại cơ hội, vừa đặt ra những thách thức cho Agribank trong hoạt động kinh doanh nói chung và triển khai Basel 2 nói riêng. Khi tự do hóa thương mại giữa các nước thành viên TPP, thành viên AEC có hiệu lực, Ngành nông nghiệp Việt nam vốn là ngành dễ bị tổn thương trong hội nhập sẽ gặp nhiều thách thức khi phải cạnh tranh với nông sản của các nước thuộc TPP và AEC. Với những hạn chế về trình độ canh tác, chế biến, bảo quản sau thu hoạch và bảo đảm an toàn các sản phẩm từ nông nghiệp so với các nước tham gia Khối, khi hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên được dỡ bỏ, nông sản Việt nam nếu chưa là nông sản sạch sẽ không còn chỗ đứng ngay cả thị trường trong nước, trong khi phân khúc khách hàng của Agribank đa phần ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Mặt khác, sau các khủng hoảng kinh tế, tài chính những năm gần đây, vấn đề quản trị rủi ro được các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, World Bank…) tập trung chú ý nhiều hơn theo hướng xây dựng các qui định nghiêm ngặt và các tiêu chuẩn tối thiểu cao hơn nhằm tăng cường an ninh hệ thống. Trong bối cảnh này, nếu Agribank không có những đột phá về mô hình tổ chức quản trị nội bộ, về kiểm tra, giám sát, minh bạch hóa hoạt động trong một sân chơi bình đẳng giữa các ngân hàng thì Agribank khó có thể phát triển ổn định và bền vững.

- Năng suất và trình độ lao động tại Agribank còn thấp là thách thức không nhỏ khi triển khai Basel 2

Do đặc thù về nguồn nhân lực tại Agribank nên so với các NHTM trong hệ thống, đặc biệt là khối NHTMNN, năng suất lao động và trình độ lao động tại Agribank còn thấp. Thực trạng này vừa tác động tiêu cực đến khả năng nâng cao năng lực quản trị RRTD và chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho việc triển khai Basel 2 tại Agribank. Vấn đề này nếu không được xử lý sẽ là rào cản khi triển khai quản trị RRTD theo Basel 2. Để vượt

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 05/12/2022