Các Nguyên Tắc Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng.


Đối với nền kinh tế: Hạn chế được RRTD sẽ giúp các NHTM phát huy được đầy đủ chức năng vốn có của mình, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển nền kinh tế, hạn chế lạm phát và thất nghiệp, đảm bảo ổn định an ninh chính trị.

Quản trị rủi ro có vai trò rất quan trọng, nhận biết được điều đó nên thời gian qua, nhờ những biện pháp quản trị rủi ro tín dụng hiện đại nên tỷ lê nợ xấu trên tổng dư nợ của các NHTM theo tiêu chuẩn Việt Nam đã giảm liên tục. Rõ ràng, xu hướng giảm dần nợ xấu là một cố gắng lớn của các ngân hàng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng và ngăn ngừa nợ xấu. Tuy nhiên, nếu hạch toán theo tiêu chuẩn quốc tế thì nợ xấu trong các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn còn khá lớn. Vì vậy, các ngân hàng cần nâng cao vai trò của quản trị rủi ro nhằm tránh những rủi ro cho ngân hàng...

1.3.2. Các nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng.

Uỷ ban Basel có đưa ra các nguyên tắc về quản trị rủi ro tín dụng (tại ấn phẩm số 75 tháng 09/2000) như sau:

1.3.2.1. Thiết lập môi trường rủi ro tín dụng phù hợp

Nguyên tắc 1: HĐQT có trách nhiệm phê duyệt và rà soát định kỳ (ít nhất là hàng năm) chiến lược và chính sách về RRTD của Ngân hàng. Chiến lược này phản ánh sức chịu đựng của Ngân hàng đối với rủi ro và mức độ sinh lời mà Ngân hàng dự kiến đạt được khi phải gánh chịu các loại RRTD.

Nguyên tắc 2: Ban điều hành phải có trách nhiệm triển khai thực hiện chiến lược RRTD do HĐQT phê duyệt, và xây dựng chính sách và quy trình để nhận dạng, đo lường, kiểm soát và hạn chế RRTD. Những chính sách và quy trình này cần chỉ rõ RRTD trong toàn bộ hoạt động của Ngân hàng ở từng khoản tín dụng cũng như ở cấp độ quản trị danh mục.

Nguyên tắc 3: Ngân hàng cần phải xác định và quản trị RRTD phát sinh trong tất các sản phẩm và các hoạt động. Ngân hàng phải đảm bảo rằng rủi ro của các sản phẩm và hoạt động mới phải được kiểm soát và thực hiện theo quy trình quản trị rủi ro thích hợp trước khi sản phẩm và hoạt động đó được ban hành hoặc


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

triển khai và phải được phê duyệt trước bởi hội đồng quản trị hoặc một uỷ ban thích hợp.

Các nguyên tắc này quy định ngân hàng cần phải thiết lập một môi trường RRTD phù hợp hay nói cách khác là phải xác định được mức độ chấp nhận rủi ro hay khẩu vị rủi ro của Ngân hàng (Risk appetite).

Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Bắc Quảng Bình - 4

1.3.2.2. Thực hiện theo một quy trình cấp tín dụng hợp lý

Nguyên tắc 4: Ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp tín dụng được xác định rõ ràng và hiệu quả. Những tiêu chí này cần bao gồm những chỉ số rõ ràng về thị trường mục tiêu của Ngân hàng và sự hiểu biết thấu đáo của người vay vốn hay đối tác, nguồn trả nợ của khách hàng cũng như mục đích và cơ cấu tín dụng.

Nguyên tắc 5: Ngân hàng phải xây dựng các hạn mức tín dụng tổng thể cho mỗi khách hàng hoặc đối tác vay vốn, hoặc nhóm khách hàng có liên quan được tổng hợp lại theo các loại rủi ro khác nhau theo các phương pháp có nghĩa và có thể so sánh được cả trong sổ ngân hàng và sổ kinh doanh cả trong và ngoài bảng tổng kết tài sản.

Nguyên tắc 6: Ngân hàng cần phải có quy trình rõ ràng cho việc phê duyệt mới, sửa đổi, cấp lại hoặc tái tài trợ các khoản tín dụng hiện tại.

Nguyên tắc 7: Việc cấp tín dụng phải được thực hiện trên nguyên tắc thận trọng và khách quan. Cụ thể là các khoản tín dụng cho các công ty và cá nhân có liên quan phải được giám sát và quan tâm đặc biệt và cần có những biện pháp thích hợp để kiểm soát và giảm thiểu rủi ro trong việc cho vay.

1.3.2.3. Duy trì một quy trình đo lường, kiểm soát và quản trị tín dụng phù

hợp

Nguyên tắc 8: Ngân hàng cần phải có một hệ thống để thực hiện quản trị và

giám sát thường xuyên, liên tục danh mục các khoản cho vay có rủi ro.

Nguyên tắc 9: Ngân hàng cần phải có hệ thống giám sát điều kiện của từng khoản tín dụng, bao gồm cả việc xác định đủ mức dự phòng RRTD.


Nguyên tắc 10: Ngân hàng cần có hệ thống đánh giá RRTD nội bộ để quản trị RRTD. Hệ thống định hạng cần phải nhất quán với bản chất, quy mô và mức độ phức tạp trong hoạt động của Ngân hàng.

Nguyên tắc 11: Ngân hàng phải có hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân tích để trợ giúp cán bộ quản trị có thể đo lường RRTD phát sinh trong các hoạt động trong và ngoài Bảng cân đối kế toán. Hệ thống thông tin quản trị cần cung cấp đủ thông tin về cơ cấu của danh mục tín dụng để có thể nhận dạng các RRTD do tập trung vào một ngành, lĩnh vực.

Nguyên tắc 12: Ngân hàng phải có hệ thống giám sát cấu trúc tổng thể và chất lượng danh mục tín dụng.

Nguyên tắc 13: Ngân hàng cần phải đánh giá đầy đủ những biến động về điều kiện kinh tế có thể xảy ra trong tương lai khi xem xét từng khoản tín dụng cũng như danh mục cho vay của mình và cần đánh giá mức độ RRTD trong điều kiện xấu nhất (Stress testing).

1.3.2.4. Đảm bảo kiểm soát đầy đủ rủi ro tín dụng

Nguyên tắc 14: Ngân hàng phải xây dựng hệ thống rà soát, đánh giá độc lập và liên tục quy trình quản trị RRTD của ngân hàng, kết quả rà soát phải được báo cáo trực tiếp Hội đồng Quản trị và Ban điều hành.

Nguyên tắc 15: Ngân hàng phải đảm bảo rằng chức năng cấp tín dụng được quản trị đúng mức và RRTD được kiểm soát theo các giới hạn và chuẩn mực nội bộ. Ngân hàng cần thiết lập và thực thi hệ thống kiểm tra nội bộ và các thông lệ khác để đảm bảo rằng các trường hợp ngoại lệ so với chính sách, quy trình và hạn mức được báo cáo một các kịp thời tới cấp quản trị thích hợp để xử lý.

Nguyên tắc 16: Ngân hàng phải có hệ thống cảnh báo sớm đối với các khoản tín dụng có nguy cơ giảm sút, quản trị các khoản cho vay có vấn đề và các trường hợp nợ xấu tương tự.


1.3.3. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng.

1.3.3.1. Nhận biết rủi ro tín dụng

Giai đoạn báo động - khi một công ty có một số dấu hiệu như, gặp khó khăn về thanh khoản, cắt giảm chi phí, cắt giảm đầu tư tài sản, giảm số lượng hàng tồn kho bằng cách giảm giá bán hàng hoá, hay luôn bị sức ép phải tăng cường thu hồi các khoản phải thu từ khách hàng, công ty này thực sự đang ở một tình trạng đáng báo động về nguồn tiền.

Giai đoạn khó khăn – một công ty gặp khó khăn về nguồn tiền thường có các biểu hiện như: Cắt giảm toàn bộ chi phí nguồn vốn, không trả được lương, thưởng cho nhân viên, không trả cổ tức cho cổ đông, cho ngừng hoạt động một số nhà máy, bán một số tài sản không thiết yếu, hay việc quản trị nguồn tiền được ưu tiên hàng đầu.

Giai đoạn khủng hoảng – đây thực sự là một giai đoạn sống còn của một công ty, là giai đoạn có thể quyết định công ty hoặc là tồn tại, hoặc là phá sản. Những dấu hiệu cho thấy sự khủng hoảng như: bán một phần tài sản của công ty, bán một số công ty con của công ty, tạm ngừng sản xuất, có sự thay đổi lớn trong bộ máy quản trị, những nhân viên chủ chốt xin nghỉ việc, không trả được nợ ngân hàng, các cam kết ràng buộc trong hợp đồng vay bị phá vỡ, không đóng thuế …

Ngoài ra còn một số dấu hiệu khi giao dịch với ngân hàng như:

- Việc trì hoãn nộp các BCTC

- Chậm trễ trong việc dàn xếp đến cán bộ ngân hàng viếng thăm công ty. Sự suy giảm mối quan hệ giũa cán bộ ngân hàng và khách hàng, như mất đi bầu không khí tin cậy và hợp tác.

- Số dư tài khoàn tiền gửi giảm sút, thường xuyên xuất hiện séc rút quá số dư, hoặc bị trả lại.

- Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi.

- Mức độ vay thường xuyên gia tăng

- Thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn

- Yêu cầu các khoản vay vượt quá mức nhu cầu dự kiến.


- Thuờng xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác.

1.3.3.2. Phân tích hoạt động Quản trị rủi ro tín dụng a). Xây dựng bộ máy tổ chức quản trị RRTD

Cơ cấu tổ chức tín dụng được tổ chức tốt là một trong những phương thức quản trị rủi ro hiệu quả.

Một điều kiện cần thiết trong phương thức tổ chức áp dụng đối với hoạt động của NHTM tách bạch giữa 3 chức năng là: chức năng kinh doanh, chức năng quản trị rủi ro, chức năng tác nghiệp. Sự tách biệt giữa 3 chức năng nhằm mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất, đồng thời phát huy được tối đa chuyên môn của từng vị trí cán bộ làm công tác tín dụng. Điểm nổi bật ở mô hình này là đảm bảo được tính độc lập của bộ phận quản trị rủi ro, không tập trung quyền lực vào một cá nhân hoặc một phòng ban nào cả..

b). Xây dựng chính sách tín dụng, quy trình tín dụng, hạn mức tín dụng nhằm quản trị rủi ro tín dụng.

Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của Ngân hàng. Hoạt động tín dụng liên quan tới nhiều bộ phận trong ngân hàng, đỏi hỏi phải có sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua chính sách, quy tắc và sự kiểm soát chung. Với tầm quan trọng và quy mô lớn, hoạt động này được thực hiện theo một chính sách rõ ràng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm, đó là chính sách tín dụng.

Chính sách tín dụng nhằm hạn chế rủi ro như: Chính sách tài sản đảm bảo, chính sách bảo lãnh, chính sách đồng tài trợ…

Mỗi một ngân hàng có một chính sách tín dụng khác nhau phụ thuộc vào điều kiện thị trường, môi trhường chính sách kinh tế vĩ mô, tuy nhiên đều có những nội dung cơ bản sau:

- Chính sách tín dụng được xây dựng trên những cơ sở nhất định như: Các quy định của Pháp luật, của NHTW về hoạt động tín dụng; Định hướng chiến lược dài hạn của ngân hàng; Phương châm kinh doanh đảm bảo an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.


- Phân cấp quản trị ưu tiên khách hàng và đối tượng khách hàng theo từng vùng địa lý theo chiến lược của ngân hàng. Quy định những trường hợp khuyến khích, hạn chế cho vay, thận trọng trong cho vay, không cho vay.

- Xây dựng một chính sách tín dụng an toàn, hiệu quả và toàn diện đối với một hoặc một số nhóm khách hàng. Để ra quyết định quan hệ tín dụng đối với một đối tượng khách hàng, ngân hàng phải phân tích tình hình khách hàng một cách toàn diện. Phải căn cứ vào danh mục TDNH: loại tín dụng, kỳ hạn tín dụng, độ lớn tín dụng và chất lượng tín dụng.

- Phân cấp thẩm quyền cho vay đến từng cán bộ tín dụng, không phải cán bộ tín dụng nào cũng được phụ trách và quản trị các khoản vay với mức dư nợ cao, nhà quản trị phải sắp xếp và phân loại đội ngũ cán bộ tín dụng theo nhóm và phân cấp hạn mức cho cán bộ tín dụng. Mặt khác, phân cấp hạn mức tới từng đơn vị, tùy vào khả năng và tình hình họat động của từng đơn vị mà phân cấp hạn mức cho phù hợp.

- Quy trình xử lý công việc, phân cấp chịu trách nhiệm trong công việc và báo cáo thông tin trong nội bộ phòng tín dụng.

- Quy trình tiếp nhận, kiểm tra và ra quyết định đối với đơn xin vay của khách hàng. Quy trình thẩm định phải đảm bảo tính khoa học đồng thời hạn chế được rủi ro.

- Danh mục các loại tài sản có thể chấp nhận làm TSBĐ và những loại tài sản không được ngân hàng chấp nhận làm TSBĐ.

Quy trình tín dụng do Ban giám đốc Ngân hàng quyết định, được xây dựng một cách chi tiết và được quán triệt xuống từng chi nhánh ngân hàng, từng cán bộ ngân hàng. Quy trình phân tích tín dụng thể hiện những nội dung mà cán bộ tín dụng phải thực hiện khi cho vay như phân tích tình hình sản xuất kinh doanh, thẩm định dự án vay, lịch sử người vay, mục đích vay, kiểm soát trong khi cho vay…

Bên cạnh chính sách và quy trình nhằm hạn chế RRTD ngân hàng mà còn xây dựng quy chế kiểm tra, phân định trách nhiệm và quyền hạn, khen thưởng và kỷ luật đối với các nhân viên tín dụng


c). Xây dựng hệ thống Xếp hạng tín dụng

Các loại khách hàng khác nhau, các đối tượng cho vay khác nhau… sẽ có rủi ro khác nhau vì vậy ngân hàng phải phân loại và đánh giá khách hàng.

Phân loại và đánh giá khách hàng là chính là xếp hạng tín dụng khách hàng. Thực chất của việc xếp hạng tín dụng là mô hình lượng hóa rủi ro. Mô hình này vừa khắc phục được phương thức truyền thống là sử dụng định tính để đánh giá khoản vay đồng thời cho phép xử lý nhanh chóng các đơn xin vay, giảm chi phí, đảm bảo tính khách quan, góp phần tích cực vào việc kiểm soát RRTD.

Xếp hạng tín dụng là việc chấm điểm RRTD của khách hàng, đánh giá mức độ rủi ro hiện tại, dự đoán rủi ro tiềm tàng để đưa ra các biện pháp phòng ngừa, đảm bảo tín dụng, thực hiện việc trích lập dự phòng đối với từng khách hàng, đáp ứng yêu cầu phân loại xếp hạng khách hàng theo chỉ đạo của NHNN.

Một số TCTD sử dụng hệ thống chấm điểm và xếp hạng tín dụng nội bộ cho mục đích này. Các mô hình thường được sử dụng là mô hình định tính 6C và mô hình định lượng điểm số Z. Mô hình 6C yêu cầu TCTD khi cho vay phải xem xét đến “6 khía cạnh - 6C” của người xin vay là: tư cách (Character), năng lực (Capacity) Bảo đảm (Collateral), điều kiện (Conditions), Thu nhập (Cash) và kiểm soát (Control). Khi tất cả các tiêu chí này phải được đánh giá tốt thì khoản vay mới được xem là khả thi. Mô hình điểm số Z yêu cầu các TCTD phải tính toán chỉ số Z, đây là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay.

Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5

Trong đó :

X1 = tỷ số “vốn lưu động ròng / tổng tài sản” X2 = tỷ số “ lợi nhuận giữ lại / tổng tài sản”

X3 = tỷ số “ lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/ tổng tài sản” X4 = tỷ số “ thị giá cổ phiếu/ giá trị ghi sổ của nợ dài hạn” X5 = tỷ số “ doanh thu/ tổng tài sản”

Theo mô hình cho điểm Z, bất cứ công ty nào có điểm số Z thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Căn cứ vào kết luận này,


ngân hàng sẽ không cấp tín dụng cho khách hàng này khi cải thiện được điểm số Z lớn hơn 1,81. Còn với Z> 3 thì sẽ được liệt vào khách hàng rất ít có khả năng vỡ nợ hay rủi ro tín dụng là rất thấp.

d). Kiểm tra giám sát hoạt động tín dụng

Để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng các NHTM thường dùng cơ chế giám sát để đảm bảo chắc chắn rằng khách hàng đang vay không sử dụng vốn vay sai mục đích cam kết. Trong cơ chế giám sát, ngân hàng thực hiện việc kiểm tra sử dụng vốn vay sau khi giải ngân kiểm tra hoạt động sản suất kinh doanh của khách hàng vay theo dịnh kỳ. Đây là một yêu cầu bắt buộc trong quy trình tín dụng của bất cứ một NHTM nào.

Ngày nay các ngân hàng sử dụng rất nhiều các biện pháp khác nhau để kiểm tra giám sát khoản vay, tuy nhiên một số biện pháp cơ bản được áp dụng ở hầu hết các ngân hàng là:

- Tiến hành kiểm tra, giám sát tất cả các loại hình tín dụng, ví dụ kiểm tra theo chu kỳ 30, 60 hay 90 ngày đối với những khoản vay lớn đồng thời cũng tiến hành kiểm tra bất thường đối với những khoản vay có quy mô nhỏ.

- Xây dựng kế hoạch chương trình, nội dung quá trình kiểm tra một cách thận trọng và chi tiết. Bảo đảm rằng những khía cạnh quan trọng nhất của khoản vay phải được kiểm tra.

- Kiểm soát và theo dõi thường xuyên những khoản vay lớn bởi vì việc không tuân thủ hợp đồng tín dụng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng nghiêm trọng đến tình hình tài chính của ngân hàng.

- Quản lý chặt chẽ và thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề, tăng cường kiểm tra giám sát khi phát hiện những dấu hiệu không lành mạnh liên quan đến khoản vay.

- Trong trường hợp tốc độ phát triển của nền kinh tế suy giảm hay các ngành chiếm tỉ trọng lớn trong hạng mục cho vay của ngân hàng phải đối mặt với những vấn đề lớn (ví dụ như sự xuất hiện các đối thủ cạnh tranh mới hay sự thay đổi công

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 08/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí