Khái Niệm Về Quản Trị Rủi Ro Trong Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương


+ Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản trị danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành 02 loại: rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.

+ Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.

+ Rủi ro tập trung: là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.

1.2.3. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng.

1.2.3.1. Các chỉ tiêu định lượng.

Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn

Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn. Nợ quá hạn là thước đo quan trọng nhất đánh giá sự lành mạnh của thể chế. Nó tác động tới tất cả các lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng.

Tỷ lệ nợ qúa hạn = ( Dư nợ quá hạn/Tổng dư nợ) x 100%

Đây là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá RRTD. Chỉ tiêu này càng thấp càng tốt. Ngược lại không thể đánh giá rằng khi chỉ số này vượt quá tiêu chuẩn chung của ngành thì là xấu. Để có thể đánh giá được một cách chính xác hơn về tình hình nợ quá hạn của ngân hàng thì cần phải đánh giá kèm theo chỉ tiêu vòng quay của các khoản nợ quá hạn này, khả năng giải quyết các khoản nợ quá hạn. Bởi vì, tỷ lệ nợ quá hạn cao mà khả năng giải quyết nợ quá hạn hay vòng quay của các khoản nợ quá hạn cao thì khả năng ngân hàng gặp RRTD sẽ thấp và ngược lại ngân hàng sẽ gặp RRTD

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Tỷ lệ nợ mất vốn so với tổng dư nợ


Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Bắc Quảng Bình - 3

Nợ mất vốn là các khoản nợ có khả năng bị mất vốn gần như 100%, thông thường nó bị xếp vào nhóm cuối cùng trong bảng phân loại nợ và phải trích lập dự phòng 100%. Nợ có khả năng mất vốn thường có quy mô nhỏ hơn nợ quá hạn và nợ dưới tiêu chuẩn nhưng nó có vai trò rất quan trọng cho người quản lý biết được hiện tại đang có bao nhiêu dư nợ không thể thu hồi được. Vì vậy để đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng thì phải luôn chú ý để tỷ lệ này ở mức thấp nhất có thể để tránh rủi ro tín dụng. Công thức tính:

Tỷ lệ nợ mất vốn = (Dư nợ mất vốn/Tổng dư nợ) x 100%

Các tỷ lệ trên đều cho biết dư nợ cho vay có khả năng xảy ra tổn thất trên tổng dư nợ chứ chưa cho nhà quản lý biết được mức độ tổn thất nếu các khoản nợ xảy ra rủi ro. Để đánh giá được tiêu chí này ta xem xét các chỉ tiêu:

Tỷ lệ lãi treo trên tổng dư nợ

Lãi treo là khoản lãi đã quá hạn mà TCTD chưa thu hồi được như vậy lãi treo biểu hiện sự suy yếu về khả năng chi trả của khách hàng, tỷ lệ này càng lớn cho thấy mức độ rủi ro tín dụng càng cao. Công thức tính:

Tỷ lệ lãi treo = (Tổng lãi treo/Tổng dư nợ) x 100%

Tỷ lệ nợ không đạt tiêu chuẩn so với tổng dư nợ

Khái niệm nợ không đạt tiêu chuẩn tuỳ thuộc vào quy định cụ thể của từng ngân hàng, tuy nhiên thông thường các ngân hàng thường quy định nợ dưới tiêu chuẩn là các khoản nợ có biểu hiện suy yếu về khả năng trả nợ của khách hàng như có sự thay đổi trong ban điều hành, HĐQT; sự suy giảm trong hoạt động sản xuất kinh doanh doanh thu, lợi nhuận sụt giảm, hàng tồn kho gia tăng, món nợ khác của chính khách hàng đó tại TCTD hoặc ở TCTD khác bị quá hạn, ... Như vậy tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn cho người quản lý một cái nhìn bao quát hơn so với tỷ lệ nợ quá hạn, và tỷ lệ này càng lớn thì rủi ro tiềm tàng của danh mục tín dụng càng lớn. Công thức tính:

Tỷ lệ nợ không đạt tiêu chuẩn = (Dư nợ không đạt tiêu chuẩn/Tổng dư nợ)x

100%

Tỷ lệ cho vay có tài sản đảm bảo so với tổng dư nợ


Như ta đã biết tài sản đảm bảo là cơ sở cuối cùng cho các TCTD khi khoản vay xảy ra rủi ro do đó tỷ lệ này càng lớn cho thấy mức độ tổn thất của TCTD càng nhỏ.

Tỷ lệ cho vay có TSĐB = (Dư nợ cho vay có TSĐB/Tổng dư nợ) x 100%

Tỷ lệ dự phòng RRTD đã trích lập cuối kỳ so với tổng dư nợ

Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền đã trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng hoặc đối tác của ngân hàng thương mại không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng không tốt và tổn thất mà ngân hàng có thể gặp phải càng cao do dự phòng rủi ro được trích lập trên cơ sở dư nợ cho vay trừ đi giá trị tài sản đảm bảo sau đó nhân với tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro. Công thức:

Tỷ lệ DPRR đã trích lập cuối kỳ so với tổng dư nợ = (DPRR đã trích lập cuối kỳ/Tổng dư nợ) x 100%.

Các tỷ lệ trên đều cho thấy mức độ rủi ro và khả năng xảy ra tổn thất trong tương lai từ các khoản cho vay của TCTD tuy nhiên chưa phản ánh được mức độ tổn thất của TCTD trong quá khứ. Để xem xét mức độ tổn thất của TCTD trong quá khứ ta sử dụng các chỉ tiêu:

Tỷ lệ nợ ngoại bảng so với tổng dư nợ

Nợ ngoại bảng là các khoản nợ đã được xử lý rủi ro bằng quỹ dự phòng rủi ro được hạch toán ở các tài khoản ngoại bảng để theo dõi. Thông thường các khoản sau khi đã sử dụng mọi biện pháp để thu hồi nợ như phát mãi tài sản đảm bảo…nếu vẫn chưa đủ thì sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp và khoản nợ này được hạch toán ra tài khoản ngoại bảng. Tỷ lệ này càng lớn cho thấy mức độ tổn thất trước đây của TCTD càng lớn.

Tỷ lệ bù đắp rủi ro = (Dự phòng rủi ro đã bù đắp/Tổng dư nợ) x 100%

1.2.3.2. Các chỉ tiêu định tính.

Bên cạnh những chỉ tiêu đo lường RRTD có thể tính toán như trên, còn có những tiêu chí khác để đo lường RRTD không thể đo lường và tính toán cụ thể:


- Chính sách quản trị điều hành đúng đắn, chiến lược phát triển phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong từng giai đoạn.

- Hệ thống trang thiết bị, công nghệ hiện đại hỗ trợ cho công tác nghiệp vụ một cách thuân lợi, hiệu quả.

- Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp,đây là yếu tố cuối cùng và quan trọng nhất trong mọi hoạt động của ngân hàng.

- Quy trình nghiệp vụ tín dụng khoa học, phù hợp với thực tế, đảm bảo quản lý chặt chẽ quá trình cấp tín dụng,vừa thuận tiện với khách hàng,vừa đảm bảo tín dụng cho ngân hàng.

- Uy tín mà ngân hàng đã tạo dựng được trong nền kinh tế và các mối quan hệ với các khách hàng truyền thống.

- Mất ổn định vĩ mô: Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị mất ổn định…đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu đến người vay. Do vậy, mất ổn định vĩ mô được xem là một nội dung phản ánh RRTD.

1.2.4. Nguyên nhân gây ra RRTD.

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Quản trị RRTD cần xác định những nguyên nhân cụ thể, cách thức gây ra rủi ro tín dụng để có biện pháp hạn chế.

1.2.4.1. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng.

Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai…là một trong những nguyên nhân của RRTD. Nhân viên ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay… Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kỹ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kỹ lưỡng, RRTD luôn rình rập họ. Sống trong môi trường “tiền bạc”, nhiều nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng rút ruột ngân hàng như cho vay khống, cho vay


không đúng mục đích…Như vậy, chất lượng nhân viên ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân của RRTD. Tình trạng các ngân hàng chạy theo chỉ tiêu doanh số và lợi nhuận bất chấp những rủi ro tiềm ẩn từ món vay cũng là nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay của ngân hàng.

1.2.4.2. Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay.

- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay

Đa số các khách hàng khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các khách hàng khác. Có những trường hợp người vay vẫn có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.

- Khả năng quản trị kinh doanh kém

Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản trị là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Nhiều người vay đã không tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh.

- Tình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch:

Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc,... Khi cán bộ ngân hàng lập các bảng phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các khách hàng cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.

1.2.4.3. Những nguyên nhân bất khả kháng

Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Ví dụ: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay dổi


tầm vĩ mô (thay đổi chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan...) vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.

Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, đủ cả gốc và lãi. Tuy nhiên khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.

1.2.5. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng.

1.2.5.1. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng.

Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, bị cấp trên khiển trách. Đối với cấp dưới, do gặp phải rủi ro tín dụng nên không có tiền trả lương cho nhân viên vì thế những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khăn cho ngân hàng.

Nói tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.

1.2.5.2. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế

Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì


người gửi tiền ở các ngân hàng khác hoang mang lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan.

1.3. Quản trị rủi ro tín dụng.

1.3.1. Khái niệm về quản trị rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương

mại.

Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, liên quan đến nhiều lĩnh vực

khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội. Việc các ngân hàng liên tục mở rộng mạng lưới, giới thiệu các dịch vụ, sản phẩm mới cũng như việc áp dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi một chiến lược quản trị rủi ro hoạt động đồng bộ nhằm quản trị và giảm thiểu rủi ro trong quá trình hoạt động. Hơn nữa, ngân hàng kinh doanh không những chỉ huy động vốn và cho vay mà còn rất nhiều lĩnh vực khác như thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh… Vì vậy có thể nói rằng rủi ro ngân hàng rất đa dạng: rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng… Trong số tất cả các loại rủi ro kể trên thì rủi ro trong hoạt động tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và phức tạp nhất, đang diễn ra ở mức đáng quan tâm. Ngoài ra, hoạt động ngân hàng cũng liên quan đến hoạt động Doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì niềm tin của người gửi tiền vào ngân hàng khác cũng bị suy giảm dẫn đến


việc rút tiền ở các ngân hàng, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng gặp khó khăn. Vì vậy các NHTM cần chú trọng đến quản trị rủi ro tín dụng.

Quản trị rủi ro tín dụng là việc sử dụng các biện pháp nghiệp vụ để kiểm soát rủi ro tín dụng, hạn chế hậu quả xấu trong hoạt động tín dụng, giảm thiểu sự tổn thất không để hoạt động ngân hàng lâm vào tình trạng đổ vỡ.

Vai trò của quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại.

Hiện nay, công tác quản trị rủi ro tín dụng có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các ngân hàng nói riêng và cả hệ thống tài chính nói chung. Việc đánh giá, thẩm định và quản trị tốt các khoản cho vay, các khoản dự định giải ngân sẽ hạn chế những rủi ro tín dụng mà ngân hàng sẽ gặp phải, và tất yếu sẽ giảm bớt nợ xấu cho Ngân hàng cụ thể:

- Dự báo, phát hiện rủi ro tiềm ẩn: phát hiện những biến cố không có lợi, ngăn chặn các tình huống không có lợi đã và đang xảy ra và có thể lan ra phạm vi rộng.

- Giải quyết hậu quả rủi ro để hạn chế các thiệt hại đối với tài sản và thu nhập của ngân hàng. Đây là quá trình logic chặt chẽ. Do đó, cần có quản trị để đảm bảo tính thống nhất.

- Phòng chống rủi ro được thực hiện bởi các nhân viên, cán bộ lãnh đạo ngân hàng. Trong ngân hàng, nhân viên có suy nghĩ và hành động khác, có thể trái ngược hoặc cản trở nhau. Vì vậy, cần phải có quản trị để mọi người hành động một cách thống nhất.

Quản trị đề ra những mục tiêu cụ thể giúp ngân hàng đi đúng hướng. Phải có kế hoạch hành động cụ thể và hiệu quả phù hợp với mục tiêu đề ra.

Vậy đối với bản thân NHTM, quản trị tốt RRTD sẽ gúp các NHTM đảm bảo an toàn vốn, lãi, các thu nhập không bị giảm sút, giúp phát triển hoạt động tín dụng và từ đó góp phần tạo đà tăng trưởng cho các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng.

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 08/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí