Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng Thương Mại

- Thực hiện các giải pháp nhằm phòng ngừa RRTD, phân tán RRTD, xử lý các khoản tín dụng xấu:

+ Phòng ngừa RRTD: Hiện nay, các NHTM thường sử dụng các công cụ tín dụng phái sinh như hợp đồng trao đổi tín dụng (Credit Swap), hợp đồng quyền chọn tín dụng (Credit options) để phòng ngừa và hạn chế RRTD cho ngân hàng. Bên cạnh đó, mua bảo hiểm RRTD cũng là một phương pháp các ngân hàng sử dụng nhằm bảo vệ nguồn vốn tín dụng của mình. Nhiều ngân hàng đã bắt đầu yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm cho các khoản vay và coi đây là một điều kiện bắt buộc để được cấp tín dụng.

+ Phân tán RRTD: Biện pháp này được các NHTM sử dụng thường xuyên và liên tục đảm bảo theo nguyên tắc: không tập trung vốn tín dụng cho một hoặc một số khách hàng; không tập trung vốn tín dụng quá nhiều cho một ngành, một lĩnh vực hoặc một khu vực địa lý. Ngoài ra, các NHTM còn thực hiện phân tán RRTD theo hình thức đa dạng hóa sản phẩm tín dụng, thực hiện cho vay đồng tài trợ, những việc này sẽ làm giảm thiệt hại xảy ra do phát sinh RRTD do rủi ro đã được san sẻ.

+ Xử lý các khoản tín dụng xấu: thực chất khi đề cập đến vấn đề này, chủ yếu xem xét trên góc độ xử lý nợ xấu. Điều này cần phải căn cứ vào thực trạng của từng khoản vay mới có được phương pháp xử lý nợ xấu. Các NHTM hiện nay đang áp dụng hai hình thức xử lý nợ xấu đó là:

Hình thức xử lý khai thác: Ngân hàng có thể tùy tình hình thực tế cấp thêm tín dụng hoặc tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của khách hàng, hoặc trực tiếp chuyển nợ quá hạn, khoanh nợ, xóa nợ.

Hình thức xử lý khác: khởi kiện; bán nợ cho các tổ chức tín dụng được phép mua bán nợ; dự phòng rủi ro và một số sự trợ giúp của Chính phủ đối với những khoản cấp tín dụng mang tính chất chỉ định, bắt buộc.

Như đã phân tích ở phần trên, các NHTM xây dựng các chiến lược, chính sách, thực hiện các giải pháp nhằm phòng ngừa, phân tán và xử lý các RRTD như: sử dụng hợp đồng quyền chọn tín dụng, hợp đồng hoán đổi tín dụng, thực hiện mua bảo hiểm các khoản cấp tín dụng, hợp đồng đồng tài trợ tín dụng … Những kỹ thuật, công cụ và biện pháp kiểm soát RRTD này của các NHTM đều được Basel 2 công nhận và có chi tiết bổ sung như sau:

Kiểm soát RRTD: Hiệp ước Basel 2 quy định các tiêu chuẩn, giới hạn tín dụng phải được thể hiện rõ ràng, cụ thể, chi tiết trong chính sách tín dụng, phản ánh đầy đủ xu hướng, sức chịu đựng RRTD trong từng thời kỳ của các NHTM, đồng thời

phải được HĐQT phê duyệt. Qui trình cấp tín dụng phải đảm bảo sự độc lập giữa bộ phận giao dịch, bộ phận thẩm định và bộ phận đánh giá lại tín dụng.

Giảm thiểu RRTD:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.

- Nguyên tắc giảm thiểu RRTD:

+ Tác dụng giảm thiểu rủi ro chỉ được tính một lần, nghĩa là giảm thiểu rủi ro chỉ sử dụng trong một kỹ thuật giảm thiểu RRTD mà không sử dụng ở nhiều kỹ thuật, ví dụ khi đã tính đến kỹ thuật giảm thiểu RRTD để đánh giá mức độ rủi ro một khoản cấp tín dụng thì sẽ không sử dụng đến kết quả của kỹ thuật giảm thiểu RRTD trong việc tính mức vốn tối thiểu.

Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam thịnh vượng - 8

+ Khi sử dụng các kỹ thuật giảm thiểu rủi ro có thể hạn chế RRTD nhưng lại có nguy cơ phát sinh rủi ro khác (rủi ro pháp lý, rủi ro tác nghiệp, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường…) làm giảm tính hiệu quả của kỹ thuật giảm thiểu rủi ro. Ví dụ: sử dụng hợp đồng bảo hiểm cho các khoản cấp tín dụng, các ngân hàng có khả năng gặp rủi ro pháp lý trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm gây bất lợi cho ngân hàng.

+ Trong cùng một khoản cấp tín dụng, nếu sử dụng nhiều kỹ thuật giảm thiểu rủi ro, các NHTM cần phải phân chia rõ ràng từng phần tín dụng được sử dụng bởi kỹ thuật giảm thiểu rủi ro nào.

- Khi nhận thế chấp, cầm cố tài sản ngân hàng cần thiết lập các ràng buộc pháp lý để đảm bảo quyền hợp pháp đối với các khoản phải thu từ tài sản. Các ngân hàng phải xem xét đến tỷ lệ đảm bảo của tài sản/giá trị cấp tín dụng nằm trong giới hạn cho phép, đủ để đảm bảo cho những phát sinh RRTD.

- Một số điều kiện được NHTM chấp thuận bảo lãnh tín dụng: Bên bảo lãnh phải được chịu rủi ro thấp hơn bên được bảo lãnh; Nghĩa vụ bảo lãnh phải được qui định rõ ràng bằng văn bản, đảm bảo quyền đòi nợ trực tiếp, hợp pháp của ngân hàng với bên bảo lãnh; Hợp đồng bảo lãnh là vô điều kiện, không thể hủy ngang, không cho phép bên bảo lãnh đơn phương hủy bỏ hoặc tăng phí bảo lãnh khi giá trị khoản nợ được bảo lãnh bị giảm sút; NHTM phải là bên nắm được toàn bộ quyền kiểm soát trong thời gian thực hiện bảo lãnh, ngoài ra bên bảo lãnh phải luôn luôn có nghĩa vụ tài chính với bên được bảo lãnh trong thời gian bảo lãnh.

- Hình thức phái sinh tín dụng được sử dụng khi đáp ứng các điều kiện: Phải thể hiện quyền truy đòi trực tiếp từ người cung cấp sự bảo vệ (người bán hợp đồng); Sự cố tín dụng phải được nhận diện và xác định rõ ràng và được ghi nhận trong hợp đồng; Phái sinh tín dụng không được chấm dứt trước thời gian gia hạn khoản nợ được gia hạn do không trả được nợ.

- Kỹ thuật chứng khoán hóa được thừa nhận để giảm thiểu rủi ro và được loại trừ khi xác định giá trị tài sản điều chỉnh theo rủi ro khi thỏa mãn các điều kiện: phần RRTD từ chứng khoán hóa đã được chuyển phần lớn sang bên thứ ba; bên chuyển nhượng (ngân hàng ) không còn có ảnh hưởng hoặc chỉ kiểm soát gián tiếp tới tài sản chuyển nhượng; chứng khoán được phát hành không phải là khoản nợ của người chuyển nhượng; người nhận chuyển nhượng có toàn quyền đối với các khoản phải thu từ tài sản chuyển nhượng (nhận các khoản phải thu, trao đổi, cầm cố… không hạn chế).

Xử lý RRTD: Theo Ủy ban Basel, để có thể xử lý RRTD một cách tốt nhất cần đặt ra cho các ngân hàng nhiệm vụ xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách tín dụng cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh doanh của NHTM nhưng vẫn tuân thủ theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, NHTM cũng cần có những phân công cụ thể, rõ ràng quyền phán quyết đối với mỗi khoản cấp tín dụng. Ngoài ra, các NHTM cũng phải luôn đảm bảo có đủ nguồn vốn kinh tế và dự phòng, đáp ứng đủ nguồn vốn khi phát sinh RRTD.

Ứng phó RRTD tại ba vòng kiểm soát:

Vòng kiểm soát thứ nhất: Chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa và phân tán rủi ro theo nguyên tắc mở rộng, tiếp thị khách hàng, phê duyệt tín dụng không tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành nghề,… Bên cạnh đó, khi tiếp cận và cấp tín dụng cho khách hàng, cũng cần thiết cân nhắc sử dụng thêm những biện pháp phòng ngừa RRTD như hợp đồng trao đổi, hợp đồng quyền chọn…Với những khoản nợ xấu, các đơn vị trong vòng kiểm soát thứ nhất thực hiện phối hợp, cung cấp thông tin, đề xuất phương án với những đơn vị thuộc vòng kiểm soát số thứ hai để thực hiện xử lý các khoản nợ xấu, giảm thiểu tổn thất cho ngân hàng.

Vòng kiểm soát thứ hai: Nghiên cứu đưa ra chính sách, định hướng tín dụng giúp các đơn vị thuộc vòng kiểm soát thứ nhất phát triển, phê duyệt cấp tín dụng theo đúng quy định. Đồng thời phối hợp với các đơn vị thuộc vòng kiểm soát thứ nhất để giám sát sau cấp tín dụng, thu hồi các khoản nợ xấu; là đầu mối xử lý các quản trị RRTD, báo cáo phối hợp xử lý với vòng kiểm soát thứ ba trong công tác kiểm tra, kiểm soát các vấn đề liên quan đến lĩnh vực tín dụng của ngân hàng.

Vòng kiểm soát thứ ba: hoạt động kiểm tra, kiểm soát định kỳ, đột xuất nhằm phát hiện các khoản cấp tín dụng có vấn đề. Phối hợp với 02 vòng kiểm soát còn lại báo cáo xử lý các khoản tín dụng xấu.

2.2.3.4. Kiểm soát rủi ro tín dụng

Như chúng ta đã biết, kiểm soát RRTD cần phải thực hiện trong tất cả các bước của một quy trình quản trị RRTD kể từ khâu nhận diện RRTD cho đến khâu xử lý RRTD. Kiểm soát rủi ro tín dụng luôn phải được quán triệt thực hiện trong nhiệm vụ hoạt động của các đơn vị thuộc 03 vòng kiểm soát của NHTM. Theo trụ cột 2 của Hiệp ước Basel 2, trong nội dung báo cáo kiểm soát, giám sát RRTD cần phải có những đánh giá về những vấn đề sau: mức độ, xu hướng của RRTD; ảnh hưởng của RRTD đến vốn của ngân hàng; xác định mức vốn cần thiết để bù đắp RRTD. Các ngân hàng cần thiết lập cấu trúc KT-KSNB lành mạnh và hiệu quả để giám sát các mức độ rủi ro. Bộ phận KT – KSNB phải trực thuộc quyền quản lý của Hội đồng quản trị Ngân hàng.

Một điểm mới trong Hiệp ước Basel 2 đó là việc bổ sung trụ cột 3 nhằm tăng cường hiệu quả giám sát và báo cáo rủi ro.Theo trụ cột này, cùng với việc thiết lập qui trình kiểm tra, giám sát nội bộ, NHTM phải thực hiện công khai, minh bạch thông tin liên quan đến quản trị RRTD. Hiệp ước Basel đề xuất một danh mục định tính và định lượng phải công khai trên thị trường. Đặc biệt, Basel 2 nêu rõ vị trí quan trọng của cơ quan giám sát ngân hàng trong việc giám sát RRTD phát sinh. Như vậy, việc kiểm soát, giám sát RRTD tại các NHTM phải được thực hiện trên 3 phương diện: kiểm soát, giám sát của nội bộ NHTM; giám sát của thị trường và giám sát của cơ quan giám sát ngân hàng.

2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại

Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị RRTD tại các NHTM được chia làm 02 nhóm chính: nhóm các nhân tố bên ngoài và nhóm các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng.

Nhóm các nhân tố bên ngoài

Theo nghiên cứu của Das (2007), Bessis (2015), Michel (2001) các nhân tố bên ngoài có tác động đến quản trị RRTD NHTM bao gồm: nhân tố kinh tế: tăng trưởng, GDP, lạm phát …[69],[85],[93];

Theo nghiên cứu của Leen (2011), Idowu và các cộng sự (2014), Hussain (2014) nhân tố bên ngoài tác động đến quản trị RRTD là chính sách tài chính: lãi suất, quy định của pháp luật về RRTD ngân hàng…; các yếu tố thuộc về khách hàng vay tín dụng và cạnh tranh của các tổ chức tín dụng khác [88],[79],[78]. Cụ thể:

Nói đến các nhân tố vĩ mô của nền kinh tế bao giờ cũng cần đề cập đến 03 nhân tố chính đó là: tăng trưởng GDP, lạm phát và lãi suất. Cụ thể như sau: Lịch sử đã chứng minh rằng nhân tố tăng trưởng GDP, lạm phát và lãi suất có ảnh hưởng tới RRTD, đồng thời từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả quản trị RRTD. Trong các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng nhân tố tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều với RRTD. Trường hợp nền kinh tế tăng trưởng, phát triển, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của khách hàng được cấp tín dụng, vì vậy rõ ràng là xác suất xảy ra RRTD sẽ thấp hơn ở thời kỳ nền kinh tế suy thoái, hiệu quả quản trị RRTD của NHTM trong thời điểm này sẽ cao hơn. Tương tự như tăng trưởng GDP, nhân tố lạm phát cũng có tác động lớn đến quản trị RRTD tại NHTM: Lạm phát cao được biết đến như là một trong những yếu tố gây ra khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp, cá nhân tham gia vào nền kinh tế, trong lưu thông, khi vật giá tăng quá nhanh thì tình trạng đầu cơ, tích trữ thường xuyên xảy ra, gây nên sự mất cân đối giả tạo làm cho lưu thông rối loạn. Điều này làm ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh cũng như thu nhập của các thành phần tham gia vào nền kinh tế. Lạm phát cao và siêu lạm phát làm cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nguồn tiền trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng, các thành phần tham gia vào nền kinh tế có thể mất khả năng thanh toán, các tính toán kinh tế bị sai lệch nhiều theo thời gian, từ đó gây khó khăn cho các hoạt động đầu tư, do đó xảy ra RRTD là điều tất yếu, hiệu quả quản trị RRTD cũng sẽ thấp hơn thời kỳ lạm phát thấp. Lãi suất cũng là yếu tố tác động đến RRTD và quản trị RRTD, trong trường hợp lãi suất thực tăng có thể tạo động lực cho ngân hàng gia tăng các khoản cấp tín dụng, rõ ràng là nếu tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng lên thì RRTD cũng sẽ có cơ hội gia tăng, hiệu quả quản trị RRTD suy giảm và ngược lại. Đối với nhân tố cạnh tranh của các tổ chức tín dụng, trong thời kỳ cần đẩy mạnh số lượng khách hàng, nhiều ngân hàng cạnh tranh với nhau để tăng lượng khách hàng phải nới nỏng một số điều kiện cấp tín dụng, điều này dẫn đến quản trị RRTD của các ngân hàng này sẽ không đạt hiệu quả như mong muốn.

Nhân tố thuộc về khách hàng có quan hệ tín dụng: tương tự như ảnh hưởng của nhân tố khách hàng đến RRTD, khi phát sinh rủi ro từ phía khách hàng như năng lực quản trị, điều hành bị suy giảm; tình hình tài chính của khách hàng kém minh bạch, sử dụng vốn sai mục đích và không có thiện chí trả nợ sẽ ảnh hưởng đến khả năng thực hiện nghĩa vụ tín dụng đối với ngân hàng, gây nên RRTD và ảnh hưởng đến hoạt động quản trị RRTD của NHTM sẽ không đạt được những kết quả như mong muốn và ngược lại.

Nhóm các nhân tố bên trong (thuộc về bản thân ngân hàng)

Theo kết quả nghiên cứu trên thế giới và trong nước của nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Anh và đồng sự (2015), Trương Đông Lộc và đồng sự (2014), Idowu và cộng sự (2014), Hussain (2014),… quản trị RRTD ngoài chịu tác động ảnh hưởng của nhóm các nhân tố vĩ mô còn chịu tác động từ các nhân tố thuộc về chính bản thân ngân hàng. Có thể kể một số nhân tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả của quản trị RRTD tại NHTM như: nhân tố về quy mô ngân hàng, tốc độ tăng trưởng tín dụng, cơ cấu tín dụng, tỷ suất lợi nhuận/ tổng tài sản, tỷ suất sinh lời/vốn chủ sở hữu, chính sách tín dụng của ngân hàng trong từng thời kỳ, nguồn nhân lực của ngân hàng…[2], [26], [79], [78].

- Quy mô của ngân hàng: Qua các nghiên cứu cho thấy thực tế quy mô của ngân hàng có tác động hai chiều đến RRTD cũng như hiệu quả quản trị RRTD. Theo nghiên cứu thực nghiệm của Stern và Feldman; Nguyễn Quốc Anh và Nguyễn Hữu Thạch thì các ngân hàng có quy mô lớn thường có nguy có RRTD cao hơn, hiệu quả quản trị RRTD thấp hơn các ngân hàng có quy mô nhỏ. Bởi lẽ theo lý giải thông thường đối với những ngân hàng có quy mô lớn, đối tượng khách hàng đều là những doanh nghiệp lớn trong các lĩnh vực khác nhau, vì vậy khi xảy ra biến động thị trường, các doanh nghiệp này sẽ dễ bị tổn thất nặng nề, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh từ đó xác suất không thực hiện được nghĩa vụ tín dụng đối với ngân hàng là khá lớn. Bên cạnh đó đối với đối tượng khách hàng này, tâm lý chung của các ngân hàng là đơn giản hoán các thủ tục tín dụng, vì vậy tạo ra lỗ hổng trong quá trình cấp tín dụng sẽ phát sinh RRTD. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của một số nhà khoa học khác trên thế giới như Thiagarajan và các cộng sự (2011) ở Ấn Độ, Hess và các cộng sự (2008) ở Úc và tại Việt Nam trong nghiên cứu của Lê Vân Chi và Hoàng Trung Lai (2014), Trương Đông Lộc và Nguyễn Văn Thép (2015) [26] thì quy mô tín dụng ngân hàng có tác động ngược chiều đến rủi ro tín dụng, nghĩa là với những ngân hàng có quy mô lớn, có đầy đủ nguồn lực để xây dựng một hệ thống quản trị rủi ro tốt hơn, do đó RRTD đối với các ngân hàng này là khá thấp mang lại hiệu quả quản trị RRTD cao.

- Tốc độ tăng trưởng tín dụng, cơ cấu tín dụng: Như đã phân tích ở trên, tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh điều này thể hiện chất lượng tín dụng có thể không cao, xác suất xảy ra RRTD lớn, hiệu quả quản trị RRTD không được như mong muốn. Các ngân hàng do chạy đua theo tăng trưởng tín dụng, vì vậy có thể sẽ xem nhẹ một số khâu hoặc tự hạ thấp hơn các quy định trong cấp tín dụng, do đó rất dễ xảy ra RRTD. Cơ cấu tín dụng trong từng thời kỳ của các ngân hàng cũng có ảnh hưởng đến RRTD. Nói đến cơ cấu tín dụng có rất nhiều khía cạnh, có thể kể đến: cơ cấu tín dụng theo ngành nghề, cơ cấu tín dụng theo đối tượng khách hàng, cơ cấu tín dụng theo thời gian,… Tùy từng thời điểm cơ cấu tín dụng sẽ thay đổi, điều này căn cứ vào chính sách và kế hoạch phát triển tín dụng từng năm của các ngân hàng. Trường hợp cơ cấu tín dụng của ngân hàng không có sự điều

chỉnh cân bằng phù hợp, chẳng hạn tỷ trọng cấp tín dụng trong lĩnh vực bất động sản cao hơn trong các ngành, lĩnh vực khác hoặc chú trọng phát triển đối tượng khách hàng tín dụng doanh nghiệp lớn,… thì RRTD sẽ cao hơn do nguồn vốn tín dụng chỉ tập trung vào các lĩnh vực này, nếu xảy ra biến động ngân hàng có khả năng sẽ lâm vào tình trạng mất cân đối vốn, mất khả năng thanh khoản, làm giảm uy tín của ngân hàng.

- Tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu (ROE): Như chúng ta đã biết, nguồn lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng lợi nhuận hàng năm của ngân hàng, như vậy trong điều kiện vốn chủ sở hữu không đổi, tỷ lệ ROE của ngân hàng trong một thời kỳ ở mức thấp, điều này thể hiện hiệu quả kinh doanh từ hoạt động tín dụng không cao, đây cũng chính là kết quả của công tác quản trị RRTD thực hiện không tốt, gây thất thoát nguồn vốn và làm suy giảm nguồn lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

- Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực luôn đóng góp một vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của mọi lĩnh vực. Trong hoạt động tín dụng, nếu chất lượng nguồn nhân lực yếu kém, không đủ năng lực chuyên môn để thực hiện thẩm định yêu cầu cấp tín dụng của khách hàng thì phát sinh RRTD là điều không thể tránh khỏi, điều này cũng thể hiện năng lực quản trị RRTD của mỗi ngân hàng chưa thực sự tốt. Bên cạnh đó, đạo đức nghề nghiệp của mỗi cán bộ tín dụng cũng là vấn đề cần quan tâm. Người cán bộ tín dụng thiếu đạo đức nghề nghiệp, vì tư lợi có thể làm sai lệch hồ sơ xin cấp tín dụng hoặc bỏ qua, xem nhẹ các quy định cấp tín dụng đối với mỗi khách hàng cũng chính là nguyên nhân gây nên RRTD cho ngân hàng.

- Ngoài những nhân tố nêu trên, qua các nghiên cứu thực nghiệm của các nhà khoa học trên thế giới và trong nước thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR), chính sách tín dụng của các ngân hàng trong từng thời kỳ, tỷ suất lợi nhuận/ tổng tài sản (ROA), tài sản bảo đảm cho khoản cấp tín dụng đều có ảnh hưởng cùng chiều hoặc ngược chiều đến hiệu quả của quản trị RRTD tại các ngân hàng.

2.4. Thực tiễn quản trị rủi ro tại một số ngân hàng thương mại và bài học rút ra cho VPBank

2.4.1. Quản trị rủi ro tín dụng tại một số ngân hàng thương mại nước ngoài Ngân hàng DBS (The Development Bank of Singarore Limited)

Ngân hàng DBS là NHTM được Chính phủ Singapore thành lập 06/1968. Đây là ngân hàng có quy mô tài sản lớn của Đông Nam Á. Ngân hàng DBS có khoảng hơn 280 chi nhánh ở 17 thị trường trên thế giới. Cuối năm 2007, Ngân hàng này đã trình kế hoạch thực hiện quản trị rủi ro theo Basel 2 với cơ quan giám sát ngân hàng Singapore (MAS) và được chấp nhận cho phép triển khai áp dụng Basel

2 từ 01/01/2008. Để có thể được triển khai Basel 2, DBS đã phải thành lập riêng một Ủy ban hướng dẫn Basel 2 (A Group Basel 2 Steering Committee), để điều hành toàn bộ dự án Basel tại ngân hàng. Bên cạnh đó, DBS đã thực hiện triệt để mô hình ba vòng kiểm soát RRTD, tăng cường chức năng kiểm soát tín dụng, đánh giá lại RRTD, sử dụng stress – testing để luôn đảm bảo đầy đủ nguồn vốn cần thiết cho quản trị RRTD. Để phục vụ có hiệu quả đo lường RRTD, DBS cũng thực hiện hoàn thiện cơ sở dữ liệu và hệ thống xếp hạng tín dụng nội bội chuẩn theo khung Basel 2.

Thực hiện áp dụng Basel 2 tại ngân hàng DBS như sau [40]

- Quy định về vốn tối thiểu (CAR), theo quy định này thì tổng tài sản tính theo RRTD được sử dụng theo 3 phương pháp là: phương pháp chuẩn hóa (SA); phương pháp tiếp cận tín dụng nội bộ (IRB cơ bản) và phương pháp tiếp cận xếp hạng nội bộ nâng cao (IRB nâng cao). Để có thể tính toán được vốn tối thiểu này, DBS cần có một nguồn cơ sở dữ liệu có đủ độ dày lịch sử. Chính vì vậy, căn cứ vào tình hình thực tế số liệu có thể tổng hợp được của ngân hàng, DBS đã thực hiện tính toán nguồn vốn tối thiểu theo từng phân khúc cụ thể như sau: Thực hiện từ 1/1/2008 đối với các danh mục bán buôn: sử dụng IRB cơ bản; đối với danh mục bán lẻ: sử dụng IRB nâng cao; các khoản vay chưa hoàn thiện cơ sở dữ liệu: sử dụng phương pháp SA. Trường hợp sử dụng phương pháp SA, DBS sử dụng hệ thống xếp hạng bên ngoài của 3 công ty xếp hạng: Standard & Poor’s, Moody’s và Fitch.

- Về quy trình kiểm tra, giám sát: tuân thủ đảm bảo duy trì mức an toàn vốn và đủ vốn. Trụ cột 2 yêu cầu các NHTM luôn phải có quy trình nội bộ đánh giá mức độ đủ vốn (ICCAP) để đảm bảo mức vốn tối thiểu ứng phó với các loại rủi ro phát sinh. Tai DBS đã thực hiện đầy đủ từ 01/01/2008. Công cụ để quản lý vốn là ICAAP ( quy trình đánh giá tính đầy đủ vốn nội bộ)- Internal Capital Adequacy Assessment Process. Bằng cách tuân theo quy trình này, DBS có thể dự báo và đưa ra được con số chính xác về nhu cầu vốn cho rủi ro tín dụng. Ngoài ra, hàng năm DBS còn sử dụng phương pháp stress – tesing để có kế hoạch về vốn một cách chính xác và kịp thời, đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn luôn phù hợp với yêu cầu.

- Minh bạch theo nguyên tắc thị trường: Thực hiện đầy đủ từ 01/01/2008. Thực hiện công khai thông tin định lượng như: thành phần của vốn, tỷ lệ an toàn vốn, danh mục tín dụng, kỹ thuật giảm RRTD,… Các thông tin định tính phản ảnh hiệu quả quản trị RRTD được thực hiện trong báo cáo nội bộ của ngân hàng. Nguyên tắc của việc công khai thông tin đó là nguồn thông tin phải được sự kiểm soát và cho phép công khai của hệ thống kiểm toán, kiểm soát nội bộ.

Xem tất cả 256 trang.

Ngày đăng: 11/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí