Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Nhtm Tại Việt Nam

Kết quả đạt được: Hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng luôn trong tốp những ngân hàng có tỷ lệ cấp tín dụng an toàn trên thế giới với nhiều khoản cấp tín dụng xếp loại “AA-” và “AA1” của ngân hàng. Trong các năm gần đây, đối với hoạt động quản trị rủi ro, Ngân hàng đã có kế hoạch tập trung vào các lĩnh vực: RRTD và danh mục đầu tư; Môi trường, xã hội và rủi ro quản trị; Rủi ro quản lý dữ liệu; Triển khai quy trình làm việc mới cấp tín dụng trên cơ sở gia tăng quản trị RRTD tại thị trường HongKong; Phát triển hệ thống nền tảng phân tích ADA được thiết kế để lưu trữ dữ liệu lớn và phân tích nâng cao, kể từ khi ra mắt đến nay đã có gần 10% tổ chức doanh nghiệp được đưa vào nền tảng.

Ngân hàng ANZ (Australia and New Zealand Banking Group Limited)

ANZ được thành lập tại Australia hơn 150 năm trước. Từ đó đến nay ANZ đã phát triển thành một tập đoàn ngân hàng và tài chính quốc tế lớn. ANZ cũng là ngân hàng hàng đầu của Australia tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Hiện nay, ANZ là một trong 50 ngân hàng lớn nhất thế giới. Với hàng nghìn đại lý, hệ thống vận hành hiện đại, kỹ thuật hàng đầu thế giới, giải pháp tài chính sâu rộng và một cam kết thực sự với cộng đồng, hiện nay ANZ đã được hơn 6 triệu khách hàng trên thế giới chọn làm đối tác tin cậy. ANZ có mô hình hệ thống quản trị RRTD tuân thủ chặt chẽ theo 03 vòng kiểm soát; hệ thống xếp hạng nội bộ với số liệu thống kê từ năm 1995; ngân hàng cũng tiến hành đo lường LGD phù hợp với yêu cầu của Basel. Chính vì vậy, ANZ được Cơ quan giám sát Ngân hàng Australia (Australia Prudential Regulation Authority – APRA) cấp phép để thực hiện Basel 2 từ ngày 1/1/2008.

Thực hiện quản trị rủi ro tại ANZ như sau: [40]

- Tính vốn tối thiểu theo phương pháp tiếp cận IRB nâng cao từ 01/01/2008. Mặc dù thực hiện theo phương pháp IRB nâng cao, tuy nhiên đối với một số khoản cấp tín dụng bán lẻ và các doanh nghiệp tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, ANZ được phép đo lường theo cách tiếp cận SA, nguyên nhân của việc này là do cơ sở dữ liệu của đối tượng khách hàng này vẫn chưa được hoàn thiện chuẩn hóa. Tuy nhiên, một đặc điểm khác biệt khi tiếp cận theo SA tại ANZ đó là việc ANZ không sử dụng kết quả xếp hạng của các tổ chức xếp hạng bên ngoài mà sử dụng chính hạng trên hệ thống xếp hạng nội bộ của ANZ. ANZ cũng có kế hoạch nâng cấp hoàn thiện dần cơ sở dữ liệu đối với phân đoạn khách hàng này để tiến hành sử dụng IRB nâng cao tính toán. ANZ không áp dụng cách tiếp cận IRB cơ bản đối với tất cả các phân đoạn thị trường.

- Thực hiện đầy đủ từ 01/01/2008: Tại ANZ, để đánh giá lại tỷ lệ an toàn vốn ngân hàng thực hiện quy trình đánh giá tính đầy đủ vốn nội bộ ICAAP. Ngân hàng thực hiện đánh giá thường xuyên các nội dung về các nguồn chính của rủi ro, kết hợp stress – testing và phân tích kịch bản phát sinh rủi ro trước và sau khi sử dụng các kỹ thuật giảm thiểu rủi ro.Từ đó xác định mức vốn tăng thêm để bù đắp cho các tổn thất có thể xảy ra trong các kỳ suy thoái kinh tế. Việc đánh giá và xác định kế hoạch vốn cần thiết cho rủi ro được ANZ thực hiện hàng tháng và báo cáo HĐQT, Ban điều hành trên cơ sở đánh giá rủi ro hiện tại, dự báo về sự thay đổi của môi trường kinh doanh và khả năng thực hiện mục tiêu kinh doanh.

- Thực hiện đầy đủ từ 30/09/2008: Những thông tin của ANZ đều được yêu cầu công khai trên trang web của ngân hàng, trên báo cáo thường niên hoặc trên báo cáo sở giao dịch chứng khoán. Tại Úc, cơ quan giám sát không yêu cầu thông tin công khai phải được kiểm toán, tuy nhiên sẽ có những quy định rõ ràng, cụ thể và chế tài xử phạt để đảm bảo tính minh bạch của thông tin như thông tin công khai cần có sự thống nhất giữa các báo cáo đã được kiểm toán hoặc được xác nhận bởi các cơ quan có thẩm quyền.

Kết quả đạt được: Theo báo cáo thường niên của ANZ ra vào tháng 9/2020, Ngân hàng này vẫn tiếp tục thực hiện cấu trúc mức độ RRTD của Tập đoàn bằng cách đặt các giới hạn về mức độ rủi ro được chấp nhận liên quan đến các đối tác hoặc khách hàng tiềm năng, các nhóm đối tác có liên quan hoặc nhóm khách hàng có liên quan về địa lý và ngành nghề kinh doanh. Những rủi ro này được theo dõi thường xuyên, liên tục và được phân thành hai nhóm quản lý là nhóm về đáp ứng nghĩa vụ trả lãi và gốc theo quy định và nhóm rủi ro liên quan đế giá trị tài sản bảo đảm và bảo lãnh cá nhân. Chất lượng tín dụng được phân loại theo tài sản tài chính được ghi nhận hoặc không được ghi nhận như sau:

+ Các khoản cấp tín dụng có tính an toàn tốt: thỏa mãn 02 điều kiện là xếp hạng nội bộ từ 1-5 và tương ứng với xếp hạng AAA đến A- của Standard & Poor.

+ Các khoản cấp tín dụng có tính an toàn loại khá: 02 điều kiện là xếp hạng nội bộ từ 6-11 và tương ứng với xếp hạng BBB+ đến BBB- của Standard & Poor.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.

+ Các khoản cấp tín dụng có tính an toàn trung bình: 02 điều kiện là xếp hạng nội bộ từ 12-23 và tương ứng với xếp hạng BB+ của Standard & Poor.

+ Các khoản cấp tín dụng có tính an toàn thấp: tương ứng với xếp hạng D của Standard & Poor và xếp hạng nội bộ 98,99.

Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam thịnh vượng - 9

2.4.2. Quản trị rủi ro tín dụng của NHTM tại Việt Nam

Ngày 17/03/2014, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành công văn 1601/NHNN-TTGSNH về việc thực hiện Hiệp ước vốn Basel 2 ở Việt Nam với lộ trình gồm 02 giai đoạn [17].

- Giai đoạn 1: Thí điểm áp dụng Basel 2 tại 10 Ngân hàng là: Vietcombank, Vietinbank, BIDV, MB, Sacombank, Techcombank, ACB, VPBank, VIB và MSB. Thời gian thực hiện từ tháng 02/2016 đến cuối 2018, mục tiêu: 10 ngân hàng nêu trên phải cơ bản đáp ứng yêu cầu của Basel 2.

- Giai đoạn 2: Ít nhất có 12-15 NHTM áp dụng thành công Basel 2, đến năm 2020 các NHTM có mức vốn tự có đáp ứng yêu cầu theo Hiệp ước Basel 2.

Phương pháp tiếp cận rủi ro tín dụng: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lựa chọn phương pháp tiêu chuẩn SA làm cơ sở để tiếp cận. Điều này có nghĩa là hệ thống NHTM Việt Nam đang và sẽ thực hiện chuyển đổi sang quản trị RRTD theo quy chuẩn của Basel.

- Đối với tỷ lệ an toàn, NHNN ban hành thông tư số 41/2016/TT-NHNN quy định tỷ lệ vốn an toàn (CAR) trong đó có các quy định, hướng dẫn về công thức tính CAR, tỷ lệ CAR tối thiểu đối với các ngân hàng là 8% và có hiệu lực thực hiện bắt đầu từ ngày 01/01/2020. Toàn bộ các NHTM được chọn thí điểm đều sử dụng phương pháp tiếp cận SA vì vậy các NHTM cần có hạ tầng kỹ thuật phát triển và cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác. Điển hình như Vietinbank đã triển khai hệ thống EWS, đây là hệ thống tích hợp nhiều nguồn thông tin khách hàng từ hệ thống kho dữ liệu doanh nghiệp, xếp hạng tín dụng nội bộ, các thông tin ở bên ngoài…; VIB đã sử dụng công cụ đánh giá rủi ro tín dụng của Moody’s nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản trị RRTD, đặc biệt với VIB năm 2019 đã chính thức hoàn tất triển khai cả 3 trụ cột chuẩn mực quản trị rủi ro Basel 2, áp dụng thành công công nghệ AI và Big Data trong phê duyệt và phát hành thẻ tín dụng.

- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đóng vai trò là cơ quan giám sát đã ban hành một loạt các thông tư quy định về quy trình quản lý và kiểm soát nội bộ của ngân hàng như Thông tư số 44/2011 quy định về kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ; Thông tư 02/2013 về việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng; Thông tư số 36/2014 về việc ban hành quy định nội bộ cấp tín dụng, quản lý tiền vay, đánh giá chất lượng tài sản có, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Ngoài ra, trong thời gian tới thực hiện quy trình ICAAP sẽ mang tính bắt buộc đối với các NHTM.

Mô hình quản trị rủi ro với 3 tuyến phòng thủ đã và đang được các NHTM áp dụng và hoàn thiện. Bên cạnh đó, các NHTM Việt Nam đều hợp tác với các công ty kiểm toán độc lập để tăng cường hiệu quả quản trị rủi ro, ví dụ như: VPBank, Sacombank, Techcombank do E&Y Việt Nam kiểm toán; MB do E&Y Singapore kiểm toán; BIDV, Vietinbank do PWC kiểm toán; Vietcombank do E&Y Việt Nam và công ty tư vấn Oliver Wyman kiểm toán…

- NHNN ban hành thông tư 36/2014 yêu cầu các NHTM phải báo cáo định kỳ về NHNN các chỉ số tài chính để phục vụ công tác quản lý và giám sát hệ thống ngân hàng Việt Nam, tuy nhiên không yêu cầu các ngân hàng phải công khai những thông tin này trên thị trường. Vì vậy, khung pháp lý về công khai, minh bạch thông tin của các NHTM vẫn còn chưa có sự rõ ràng.

Tính đến thời điểm hiện nay, tại Việt Nam hầu hết các ngân hàng đã áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo tiêu chuẩn của Basel 2, trong đó 18/34 NHTM đã áp dụng trước hạn là: VIB, Vietcombank, MB Bank, Techcombank, ACB, MSB, HDBank, OCB, VPBank, VietBank, Vietcombank, VietCapitalBank, SeABank, ShinhanBank, LienVietPostBank, NamABank, Standard Chartered Việt Nam và BIDV.

Theo quy định của Thông tư 13/2010/TT-NHNN và Thông tư 36/2014/TT- NHNN, TCTD phải duy trì tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu là 9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro. Chính vì vậy, nhiều ngân hàng vẫn đang gặp khó khăn trong việc tăng vốn. Cuối 2019, NHNN đã lùi thời gian cho các ngân hàng chưa đáp ứng được đầy đủ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn Basel 2 đến trước ngày 01/01/2023 thay vì 01/01/2021. Bên cạnh đó, các Ngân hàng hiện nay cũng đang gặp khó khăn do phải tập trung nguồn lực cơ cấu nợ, giảm lãi, phí hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng của đại dịch Covid – 19.

Qua một thời gian triển khai thực tế tại các NHTM tại Việt Nam cho thấy một số vấn đề đó là: NHTM có quy mô nhỏ dễ đáp ứng chuẩn mực Basel 2 hơn so với các ngân hàng lớn do có lợi thế về tái cấu trúc hoạt động và danh mục đầu tư dễ hơn, đồng thời, lượng vốn cần huy động để đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn nhỏ cũng sẽ đơn giản hơn; quản trị RRTD theo chuẩn quốc tế Basel 2 cần phải được đầu tư một lượng tài chính lớn, nguồn nhân lực có đủ khả năng chuyên môn, hệ thống công nghệ thông tin và năng lực thanh tra đáp ứng được yêu cầu chuẩn hóa.

Đối với các NHTM đã thực hiện công khai thông tin liên quan đến chính sách quản lý rủi ro, cơ cấu các loại tài sản rủi ro, dự phòng rủi ro… Theo đánh giá của NHNN Việt Nam, các thông tin này vẫn chưa đạt đến tiêu chuẩn quốc tế điển

hình là những thông tin liên quan đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng mới chỉ đạt tới 55% so với chuẩn quốc tế.

2.4.3. Tổng kết một số vấn đề thực tiễn trong công tác quản trị rủi ro tại các NHTM trong và ngoài nước

Hoạt động quản trị rủi ro NHTM trên thế giới đã và đang phát triển theo hướng áp dụng chuẩn mực quốc tế Hiệp ước Basel 2 và tương lai là Hiệp ước Basel

3. Thực tiễn đã chứng minh hướng đi này của các NHTM là hoàn toàn chính xác, nhờ áp dụng quản trị theo các chuẩn mực quốc tế đã giúp cho NHTM có đánh giá được toàn diện hoạt động của hệ thống ngân hàng, từ đó là cơ sở để các nhà quản lý hoạch định được những chiến lược kinh doanh phù hợp. Ngoài ra, nhờ quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế, NHTM cũng có những kiểm nghiệm về khả năng chịu đựng rủi ro của bản thân ngân hàng, vì vậy sẽ có những chuẩn bị và kế hoạch thực hiện khi phát sinh rủi ro. Nhìn chung, quản trị rủi ro theo chuẩn mực quốc tế được các NHTM trên thế giới thực hiện như sau:

Thứ nhất, về điều kiện thực hiện quản trị rủi ro trong các NHTM: thực tế đã chứng minh để triển khai hoạt động quản trị rủi ro theo chuẩn quốc tế một trong các điều kiện cần thiết đó chính là NHTM cần có nguồn tài chính dồi dào để đáp ứng thực hiện. Vì vậy, những NHTM trên thế giới khi đã áp dụng Hiệp ước Basel 2 vào quản trị rủi ro đều có năng lực tài chính đủ mạnh để hoàn thành được những quy định của Hiệp ước Basel 2 trong quản trị rủi ro.

Thứ hai, về tính toán lượng vốn tối thiểu cần đảm bảo trong hoạt động của ngân hàng, hầu hết các NHTM trên thế giới đều hướng tới cách tính toán lượng vốn tối thiểu theo phương pháp IRB cơ bản và nâng cao. Tuy nhiên, những NHTM này thông thường không áp dụng chung một phương pháp tính với tất cả các phân đoạn khách hàng, mà tùy từng trường hợp cụ thể, dựa trên bề dày lịch sử và đầy đủ của số liệu mà từng NHTM sẽ lựa chọn phương pháp IRB thích hợp. Trong trường hợp, nguồn số liệu đầy đủ, NHTM dùng phương pháp IRB nâng cao, có nghĩa là tự ước lượng PD, EAD, LGD và M trên cơ sở được sự phê duyệt và chấp thuận của cơ quan giám sát ngân hàng. Đối với nguồn dữ liệu chưa đáp ứng đủ tiêu chuẩn, NHTM sử dụng IRB căn bản, sử dụng ước lượng nội bộ với PD và ước lượng EAD, LGD và M của cơ quan giám sát ngân hàng. Ở một số nước đang phát triển hoặc tại các NHTM có quy mô nhỏ hiện nay đang thực hiện tính toán vốn tối thiểu theo phương pháp tiêu chuẩn SA và hướng đạt tới phương pháp IRB căn bản, nguyên nhân do quy mô các NHTM nhỏ và chưa có kinh nghiệm trong quản trị dữ liệu, quy định về cung cấp thông tin của cá nhân, doanh nghiệp ở các nước này vẫn chưa được đầy đủ, chính vì vậy nguồn dữ liệu không thể đáp ứng phương pháp IRB nâng cao.

Về thời gian thực hiện: căn cứ vào các đánh giá thực tế đáp ứng của nguồn dữ liệu, NHTM sẽ chọn thời điểm áp dụng phù hợp phương pháp tính toán vốn tối thiểu đảm bảo rủi ro. Đảm bảo nguyên tắc mọi hoạt động của ngân hàng đều cần có thời gian thích ứng, chuẩn bị cho những phương án “bước đệm” thích hợp với yêu cầu về cách tính vốn tối thiểu đã lựa chọn.

Thứ ba, nhìn chung, các NHTM trên thế giới đều đã xây dựng được một quy trình rà soát, kiểm tra giám sát việc đảm bảo duy trì mức độ an toàn vốn. Tương ứng với những quy trình này, các NHTM xây dựng các bộ phận chuyên môn, chuyên trách thực hiện. Để đảm bảo trụ cột 2 của Hiệp ước Basel 2, những NHTM phải tính toán đảm bảo mức vốn đủ đáp ứng đối phó với 03 rủi ro chính là: RRTD, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường thì cũng phải chuẩn bị nguồn vốn đối phó với một số rủi ro khác có thể phát sinh như rủi ro về danh tiếng, rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng…Để làm được những điều này, các NHTM đã thực hiện xây dựng kịch bản về stress-tesing và thường xuyên sử dụng để kiểm tra khả năng, ngưỡng chịu đựng rủi ro của Ngân hàng.

Thứ tư, tại các nước có nền kinh tế phát triển, các quy định về công khai thông tin trên thị trường đối với NHTM đều được quy định rất rõ ràng và yêu cầu thực hiện nghiêm ngặt. Đối với các nước đang phát triển, do xuất phát từ đặc trưng của hoạt động kinh tế, những quy định về công khai thông tin mặc dù đã được ban hành tuy nhiên việc thực hiện vẫn còn gặp nhiều hạn chế, hoạt động này đang được các NHTM tích cực hoàn thiện để đảm bảo theo yêu cầu của trụ cột 3 Hiệp ước Basel 2.

2.4.4. Bài học rút ra từ cơ sở lý luận và thực tiễn cho quản trị rủi ro tín dụng tại VPBank

Căn cứ vào nội dung lý luận và trên quá trình hoạt động thực hiện triển khai quản trị RRTD tại các NHTM trên thế giới, có thể rút ra một số kinh nghiệm về việc triển khai quản trị RRTD tại VPBank theo hướng chuẩn quốc tế như sau:

Thứ nhất, xây dựng một hệ thống quy định và hướng dẫn thực hiện quản trị RRTD một cách hoàn thiện, đầy đủ và chi tiết. Thực tế, Hiệp ước Basel 2 là những quy định chung nhất theo các chuẩn mực quốc tế, vì vậy khi ứng dụng vào các NHTM của từng nước, cần có sự điều chỉnh về văn bản pháp lý, hướng dẫn, chính sách phù hợp với điều kiện cụ thể. Ngoài ra, Basel 2 cũng gợi ý nhiều mô hình, cách tiếp cận quản trị RRTD khác nhau, chính vì thế cần phải có hướng dẫn cụ thể đối với từng đối tượng là các NHTM với quy mô, đặc điểm riêng thì nên thực hiện theo mô hình quản trị RRTD nào là phù hợp, cách thức thực hiện ra sao và lộ trình tiến hành thực hiện kéo dài bao lâu.

Ngoài ra, để có sự thành công trong quá trình quản trị RRTD tuân thủ theo các quy định quốc tế (Hiệp ước Basel 2) đòi hỏi mỗi ngân hàng cần có sự chuẩn bị kỹ càng. Đa phần các NHTM đi trước đều thành lập 1 Ủy ban triển khai quản trị rủi ro chuyên biệt để thực hiện công tác chuẩn bị cũng như điều hành toàn bộ quá trình triển khai. Đồng thời, các NHTM phải có hệ thống các văn bản qui định và hướng dẫn thực hiện Basel 2 phải được hoàn thiện trước thời điểm triển khai.

Thứ hai, Cần phải dựa trên những điều kiện, đặc điểm, năng lực cụ thể thực tế của từng ngân hàng. Điều này có nghĩa là sẽ không có một phương án hay kế hoạch thực hiện chung giống nhau cho các ngân hàng. Bởi lẽ các ngân hàng sẽ có những đặc điểm, năng lực quản trị và nguồn dữ liệu, chính sách rủi ro là khác nhau, do đó khi sử dụng mô hình quản trị RRTD nào cũng cần phải căn cứ trên thực trạng của mình để có sự điều chỉnh thực hiện sao cho phù hợp. Ví dụ đối với những NHTM có nguồn dữ liệu với bề dày lịch sử lâu dài, dữ liệu có tính chính xác cao, thì những ngân hàng này có thể đo lượng xác định rủi ro tín dụng theo hướng tiếp cận IRB nâng cao hoặc mặc dù Ủy ban Basel khuyến khích nên tiếp cận tính toán RRTD theo IRB nâng cao, tuy nhiên những ngân hàng xác định phân khúc một số thị trường của mình nguồn dữ liệu còn chưa ổn thì có thể áp dụng phương pháp tiếp cận SA đối với phân khúc thị trường này (trường hợp ngân hàng ANZ).

Ủy ban Basel 2 khuyến khích các NHTM thực hiện đo lường rủi ro theo phương pháp IRB, theo nội dung phương pháp này tính chính xác của các ước đoán nội bộ là rất quan trọng. Vì vậy, các NHTM được khảo sát đều được Cơ quan giám sát Ngân hàng yêu cầu trước khi áp dụng phải có giai đoạn tiếp cận song song phương pháp truyền thống (hoặc SA) và IRB- giai đoạn này có thể coi là giai đoạn vận hành thử hoặc có một số quốc gia yêu cầu tiếp cận hoàn toàn theo phương pháp SA (Việt Nam).

Một điều kiện quan trọng để áp dụng chuẩn quốc tế trong quản trị RRTD được thành công đó là các NHTM cần phải có một nguồn dữ liệu chính xác, đầy đủ, tin cậy và có đủ độ dài lịch sử. Dữ liệu là nguồn thông tin đầu vào cho việc xếp hạng tín dụng khách hàng, là cơ sở để đưa ra các nhận định về nhận diện, đo lường, giám sát và kiểm soát RRTD. Thêm vào đó, nguồn dữ liệu cũng cần phải được cập nhật thường xuyên, kịp thời đáp ứng hiệu quả kiểm soát, giám sát RRTD.

Xây dựng hạ tầng công nghệ hiện đại đáp ứng yêu cầu về quản trị RRTD theo chuẩn quốc tế. Như đã phân tích ở trên, toàn bộ quy trình quản trị RRTD theo chuẩn quốc tế là quá trình diễn ra liên tục, đan xen lẫn nhau vì vậy cần phải có một hệ thống công nghệ hiện đại đáp ứng được yêu cầu về thông tin, xử lý dữ liệu, phân tích báo cáo trên toàn hệ thống. Mặt khác, các phương pháp đo lường về RRTD,

lượng vốn cần thiết cho quản trị RRTD, là phương pháp tính cần nhiều yếu tố công nghệ, vì vậy hạ tầng công nghệ càng hiện đại càng có tác động đến hiệu quả quá trình quản trị RRTD.

Lộ trình áp dụng thực hiện Basel 2 tại các ngân hàng trên thế giới là không đồng nhất. Có thể thấy rằng, với mỗi một ngân hàng khác nhau, căn cứ trên thực trạng hoạt động của bản thân ngân hàng sẽ có lựa chọn lộ trình thực hiện Basel 2 có khác nhau về thời gian. Nguyên nhân của điều này có thể xuất phát từ quy mô của các ngân hàng, những ngân hàng có quy mô lớn thường được lựa chọn tiên phong đi đầu trong việc thực hiện Basel 2, sau đó mới thực hiện đại trà trên toàn hệ thống ngân hàng hoặc có thể do bắt nguồn từ thực tế hoạt động ban đầu của các ngân hàng trước khi quyết định áp dụng quản trị rủi ro theo Basel 2, với những ngân hàng có nguồn dữ liệu chính xác, thời gian theo dõi dữ liệu lâu dài, các chính sách văn bản quy định rõ ràng thì lộ trình thực hiện Basel 2 sẽ được đẩy nhanh hơn các ngân hàng khác. Vì vậy, VPBank cần cân nhắc lập kế hoạch lộ trình thích hợp để áp dụng quản trị RRTD theo Basel 2.

Thứ ba, xây dựng hệ thống quy trình giám sát, rà soát, kiểm soát RRTD trong tất cả các bước của quản trị RRTD bao gồm: Nhận biết RRTD (đưa ra những phương pháp, công cụ phù hợp để nhận diện đầy đủ RRTD sẽ phát sinh hoặc đã phát sinh; xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ áp dụng với tất cả các khoản cấp tín dụng; sử dụng công cụ kiểm tra sức chịu đựng stress testing nhằm nhận diện sớm các rủi ro và yếu tố tác động đến RRTD); Đo lường RRTD (ban hành quy trình hướng dẫn chi tiết cách tính vốn tối thiểu duy trì an toàn cho các NHTM); Ứng phó rủi ro (các chính sách tín dụng được xây dựng cần phải đáp ứng các quy định về tiêu chuẩn, giới hạn tín dụng, xu hướng và ngưỡng chịu đựng rủi ro tương ứng với từng thời kỳ của các NHTM); Kiểm soát RRTD ( xây dựng hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ độc lập với hoạt động kinh doanh của NHTM, trực thuộc quản lý của Hội đồng quản trị).

Thứ tư, để VPBank có thể thực thành công quản trị RRTD theo quy định chuẩn quốc tế, một trong những yêu cầu đặt ra đó là công khai, minh bạch thông tin. Cơ quan giám sát Ngân hàng của các nước phải có sự chuẩn bị và hoàn thiện về hành lang pháp lý về quản trị RRTD theo quy định chuẩn quốc tế. Thời điểm ban hành phải xảy ra trước thời điểm bắt buộc áp dụng quản trị RRTD theo chuẩn quy định quốc tế (Hiệp ước Basel 2). Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cần có sự hướng dẫn cụ thể cho các NHTM thực hiện theo các văn bản này.

Basel 2 đề cao vai trò giám sát của hệ thống giám sát của Nhà nước đối với RRTD. Để đáp ứng được yêu cầu này, cần phải có một hệ thống giám sát đầy đủ và

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/12/2022