Ngoài những luận án tiến sĩ nêu trên, trong thời gian qua còn có một số đề tài nghiên cứu khoa học có đề cập đến rủi ro tín dụng và quản trị/quản lý rủi ro tín dụng, cụ thể:
- Luận văn thạc sĩ kinh tế của Phạm Xuân Hòe với đề tài về “Giải pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam” (2006), Học viện Ngân hàng [10], đã giải thích những vấn đề cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng và nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
- Với đề tài “Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam”, (2008), Đại học Kinh tế Tp.Hồ Chí Minh [3], Trần Tiến Chương đã đưa ra được những giải pháp cơ bản cần được triển khai để nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam, trong đó nghiên cứu hệ thống xếp hạng nội bộ.
Nhìn chung, các nghiên cứu trên đây đã góp phần quan trọng đưa ra những lí luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng trong thời gian qua. Tuy nhiên, các nghiên cứu đề cập trên đây còn một số “khoảng trống” trong nghiên cứu về quản trị rủi ro tín dụng mà điển hình là quản trị rủi ro tín dụng đối với Ngân hàng TMCP Quân đội.
Các “khoảng trống” trong nghiên cứu lí luận về rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng và thực trạng rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân đội:
- Cơ sở lí luận chưa có tính hệ thống và cập nhật về rủi ro tín dụng trong giai đoạn hiện nay, khi mà việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang thực thi lộ trình quản trị rủi ro trong đó có rủi ro tín dụng theo Hiệp ước Basel II. Bên cạnh đó, Việt Nam đã có sự phát triển và hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với kinh tế các quốc gia trong khu vực và quốc tế.
- Các nghiên cứu về quản trị rủi ro tín dụng hầu hết chỉ đưa ra các giải pháp là “ngăn ngừa” rủi ro hay “hạn chế” rủi ro tín dụng chứ không đi vào “quản trị” rủi ro, tức là coi rủi ro như là một vấn đề mà ngân hàng phải “chấp nhận” hay nói cách khác coi rủi ro là vấn đề luôn xảy ra trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, rủi ro luôn song hành và phụ thuộc vào “khẩu vị” rủi ro của mỗi ngân hàng.
- Nhiều công trình nghiên cứu phân tích rủi ro vẫn mang tính chất định tính, chưa chỉ ra được mô hình để quản trị rủi ro, đo lường rủi ro, tổn thất ngân hàng phải gánh chịu khi rủi ro tín dụng xảy ra, chưa phản ánh được mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng, chưa chỉ ra được mục tiêu của chất lượng tín dụng và cách thức để xây dựng hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lượng tổng thể danh mục đầu tư tín dụng.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội - 1
- Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội - 2
- Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Tác Động Của Rủi Ro Tín Dụng Đến Hoạt Động Của Ngân Hàng Và Sự Ổn Định Của Nền Kinh Tế
- Những Nội Dung Cơ Bản Trong Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
- Các đề tài chủ yếu xây dựng các giải pháp hạn chế hay ngăn ngừa rủi ro cho các ngân hàng thương mại Việt Nam, tuy nhiên hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam rất đa dạng về hình thức sở hữu, trình độ phát triển, nhân lực, năng lực tài chính, công nghệ và hơn hết đó là cách hiểu cũng như “khẩu vị” chấp nhận rủi ro đối với mỗi ngân hàng là khác nhau. Do vậy, sẽ không có mô hình quản trị rủi ro chung cho tất cả các ngân hàng hay các giải pháp tăng cường quản trị rủi ro đúng và phù hợp cho tất cả các ngân hàng.
- Nhiều công trình nghiên cứu đã lạc hậu cả về cơ sở lí luận cũng như thực tiễn hoạt động do vậy các giải pháp đưa ra cũng sẽ không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay trong quá trình phát triển và hội nhập ngày càng cao của các ngân hàng thương mại. Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu về kinh tế và tài chính thì hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bên cạnh việc tiếp nhận công nghệ quản trị ngân hàng hiện đại thì cũng tiềm ẩn những rủi ro của hệ thống tài chính quốc tế cũng như những áp lực về cạnh tranh ngày càng gay gắt trong lĩnh vực ngân hàng.
- Bên cạnh đó cũng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội trong giai đoạn 2011-2015 cũng như đưa ra đề xuất hệ thống các giải pháp để tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội.
Vì vậy, đề tài “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội” được phát triển nhằm bổ sung phần nghiên cứu về cơ sở lí luận và từ cơ sở lí luận trên vận dụng trong điều kiện thực tiễn thực hiện quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội trong thời gian từ năm 2011- 2015, từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
3. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng trong
điều kiện áp lực cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
ngày càng mạnh mẽ cũng như những tác động của việc hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng cho NHTM Việt Nam thông qua việc cứu một số ngân hàng trên thế giới.
- Đánh giá toàn bộ rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Quân đội một cách hệ thống trong giai đoạn 2011-2015 và thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng trong giai đoạn trên.
- Đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế, tồn tại trong công tác quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Quân đội và các nguyên nhân của những hạn chế.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội.
Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung khoa học: cơ sở lí luận về rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng
đối với ngân hàng thương mại.
- Về không gian nghiên cứu: tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội và một số ngân hàng TMCP đại chúng.
- Thời gian: số liệu phân tích thực trạng trong giai đoạn 2011-2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở xuyên suốt quá trình nghiên cứu của đề tài là:
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Xem xét một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác.
Phương pháp phân tích định tính, định lượng để đo lường rủi ro tín dụng đối với một khoản tín dụng hay với danh mục tín dụng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Phương pháp chuyên gia: Tác giả có sử dụng nghiên cứu và đánh giá của một số chuyên gia.
Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp số liệu các báo cáo thống kê của ngân hàng TMCP Quân đội cũng như các ngân hàng niêm yết trên thị trường chứng khoán cũng như hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hóa những cơ sở lí luận về rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại có bổ sung những thay đổi mới khi các ngân hàng đang triển khai thực hiện các quy định trong Hiệp ước Basel II.
- Hệ thống hóa các bài học kinh nghiệm trong công tác quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại trên thế giới từ đó đúc rút các bài học kinh nghiệm trong quản trị rủi ro tín dụng đối với NHTM Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Quân đội giai
đoạn 2011-2015.
- Đánh giá thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân đội giai đoạn 2011-2015.
- Tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại trong công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
- Đề xuất các kiến nghị đối với Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban giám sát Tài chính quốc gia nhằm tăng cường công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu của luận án gồm 3 chương:
- Chương 1: Rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
- Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội
- Chương 3: Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội.
Chương 1
RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế các quốc gia, đặc biệt đối với nền kinh tế Việt Nam do thị trường vốn, thị trường chứng khoán còn chưa phát triển. Tín dụng có vai trò thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn và phân bổ lại nguồn lực đầu tư của xã hội vào lĩnh vực của nền kinh tế một cách có hiệu quả. Đối với các ngân hàng thương mại thì tín dụng đem lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng tuy nhiên nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Thực tế chứng minh rằng có nhiều ngân hàng lớn nhưng do việc quản trị rủi ro tín dụng không tốt đã làm cho ngân hàng bị giảm sút lợi nhuận, thậm chí rơi vào diện phải tái cấu trúc theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước.
1.1. RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn phát sinh rủi ro, ứng với mỗi hoạt động của ngân hàng có rủi ro riêng đối với hoạt động đó, bên cạnh đó có những rủi ro có thể ảnh hưởng đến tất cả hoạt động của ngân hàng. Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động đem lại thu nhập cao nhất cho ngân hàng thương mại, cùng với đó thì rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro có mức độ ảnh hướng lớn nhất đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm và chức năng của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, khái niệm ngân hàng thương mại được đưa ra như sau: Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế [7].
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 7 Khóa XII ngày 16 tháng 6 năm 2010, tại Điều 4 có ghi “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được
thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã” và “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. trong đó quy định: “Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: Nhận tiền gửi; Cấp tín dụng; Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản” [22].
Ngân hàng thương mại dù ở quốc gia nào cũng là trung gian tài chính lớn nhất và là tổ chức tài chính mà các chủ thể kinh tế giao dịch thường xuyên nhất, không chỉ vậy, ngân hàng còn có những chức năng riêng có mà không một tổ chức tín dụng nào được phép có như: Chức năng tạo tiền, Chức năng trung gian tài chính, Chức năng trung gian thanh toán.
1.1.1.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, hình thức biểu hiện của tín dụng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, do vậy trên thực tế các nhà kinh tế cũng có nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về tín dụng. Tuy nhiên dưới hình thức nào thì quan hệ này cũng bộc lộ chung một bản chất và có thể hiểu tín dụng một cách tổng quát như sau:
Tín dụng là hệ thống quan hệ kinh tế liên quan đến các giao dịch về tài sản giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Xét về bản chất, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả với các đặc trưng sau:
Thứ nhất, tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng bao gồm hai hình thức là tiền hay hiện vật.
Thứ hai, tín dụng phải tuân thủ theo nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn.
Thứ ba, giá trị được hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
Thứ tư, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện, có nghĩa là bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Phân loại hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại tín dụng, cho nhiều đối tượng khách hàng, với những mục đích sử dụng khác nhau.
Căn cứ vào thời gian, tín dụng ngân hàng được chia làm ba loại:
Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời gian cho vay đến 12 tháng. Loại hình tín dụng này thông thường được áp dụng với nhiều loại hình khách hàng dưới hình thức vay hạn mức hay từng lần. Thông thường khách hàng sẽ có một phần tài sản để bảo đảm cho toàn bộ món vay.
Tín dụng trung hạn: Là các khoản tín dụng có thời gian cho vay từ 12 tháng đến 60 tháng. Đây thường là hình thức ngân hàng cấp tín dụng cho các dự án mua sắm máy móc thiết bị, các dự án xây dựng nhà xưởng, kho bãi… Thông thường tài sản hình thành từ vốn vay sẽ được dùng để thế chấp ngân hàng.
Tín dụng dài hạn: Là các khoản tín dụng có thời gian cho vay từ 60 tháng trở lên. Đây thường là hình thức ngân hàng cấp tín dụng cho các dự án mua sắm dây chuyền thiết bị đồng bộ, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng… Tài sản thế chấp chủ yếu là tài sản hình thành từ vốn vay.
Căn cứ vào biện pháp bảo đảm, tín dụng ngân hàng được chia làm hai loại:
Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: Là các khoản tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Loại hình tín dụng này đảm bảo cho ngân hàng có độ an toàn cao hơn, khả năng mất vốn thấp hơn do ngân hàng có thể phát mại tài sản để thu hồi vốn trong trường hợp khách hàng không có khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản: Là các khoản tín dụng mà theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng không được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Loại hình tín dụng này khá rủi ro với ngân hàng nên ngân hàng chỉ áp dụng đối với
những khách hàng có uy tín, được ngân hàng tín nhiệm và là khách hàng truyền thống, chiến lược của ngân hàng.
Vai trò của tín dụng ngân hàng thương mại
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò trung gian giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình tuần hoàn, chu chuyển vốn của doanh nghiệp
Với nghiệp vụ huy động vốn ngân hàng thương mại tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội đầu tư, sinh lợi từ vốn nhàn rỗi tạm thời. Bằng nguồn vốn huy động được các ngân hàng có điều kiện đáp ứng vốn cho các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn. Là cầu nối giữa bên thừa vốn và bên thiếu vốn tạm thời, tín dụng ngân hàng góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách liên tục, không bị gián đoạn.
Tín dụng ngân hàng góp phần giải quyết mâu thuẫn giữa chu kỳ thu nhập và chu kỳ tiêu dùng
Trong thời gian đầu của cuộc sống con người phải học tập, học nghề, chờ việc… họ hầu như chưa tạo ra khoản thu nhập đáng kể nào, nhưng lại có nhu cầu chi tiêu cao. Khi đã tham gia vào quá trình sản xuất xã hội, lao động của họ không những tạo ra thu nhập đủ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu và còn có khả năng dành một phần để tích lũy, tích lũy để thỏa mãn nhu cầu cao hơn hay để dự phòng. Tín dụng ngân hàng không chỉ giải quyết được mâu thuẫn giữa chu kỳ thu nhập và chu kỳ tiêu dùng của các cá nhân, mà còn góp phần nâng cao đời sống cho người lao động, kích thích sản xuất phát triển.
Tín dụng ngân hàng thu hút nguồn vốn tiết kiệm và thúc đẩy quá trình tập trung vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp vốn tự có dùng để đầu tư có giới hạn, bên cạnh đó việc huy động vốn trực tiếp đòi hỏi những điều kiện hết sức chặt chẽ mà không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng thực hiện được, trong trường hợp này vốn tín dụng là nguồn tài trợ quan trọng cho nhu cầu đầu tư. Tín dụng thực hiện huy động vốn tiết kiệm của cá nhân, doanh nghiệp, nhà nước để đáp ứng nhu cầu đầu tư, phát triển kinh tế. Bằng việc thu hút nguồn vốn tiết kiệm đáp ứng cho nhu cầu đầu tư, tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.