% năm 2004 và chỉ còn 8,9% vào năm 2007.
* Kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng của Trung Quốc
Theo quy đinh của Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (với tư
cách là
Ngân hàng Trung ương), bộ phận tín dụng của ngân hàng thương mại cần phải có quy trình kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, kịp thời thu thập thông tin để phân loại, thiết lập và kịp thời đề xuất kiến nghị kiểm tra lại; Chịu trách nhiệm về tính chân thực, tính chính xác, tính hoàn chỉnh của các dữ liệu phân loại đã cung cấp; Tiến hành phân loại sơ bộ tài sản theo tiêu chuẩn phân loại, đề xuất ý kiến và lý do phân loại; Đinh kỳ báo cáo cho bộ phận quản lý rủi ro những thông tin phân loại của bộ phận tín dụng; Căn cứ vào kết quả phân loại tiến hành quản lý các khoản túi dụng có sự phân biệt trong quản lý đối với từng khoản túi dụng, thực hiện các biện pháp cải tiến, loại trừ và xử lý rủi ro.
Ngân hàng nhân dân trung Quốc đã ban hành hướng dẫn trích lập dự phòng tổn thất cho vay số 98 (năm 2002) và công văn số 463 (năm 2005), yêu cầu các NHTM kiểm ttra đinh kỳ đối vói các loại tài sản dựa trên nguyên tắc thận trọng, dự kiến một cách hợp lý các khoản tài sản có khả năng phát sinh tổn thất và trích lập dự phòng giảm giá tài sản đối vói các tài sản có khả năng phát sinh tổn thất như dự phòng tổn thất cho vay.
Khi phân loại các khoản tín dụng, NHTM Tmng Quốc chủ yếu dựa
trên khả năng trả nợ và dòng tiền thuần, thiện chí trả nợ, tài sản đảm bảo, trách nhiệm pháp luật về thanh toán nợ vay của khách hàng, tình hình quản lý tín dụng của ngân hàng....
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Nhân Hàng
- Một Số Chỉ Tiêu Dùng Đánh Giá Tình Hình Tài Chính Của Khách
- Kinh Nghiệm Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Của Một Số Ngân Hàng Thương Mại Trong Và Ngoài Nước
- Bài Học Kinh Nghiệm Rút Ra Về Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng
- Cơ Cấu Tổ Chức Bộ Máy Quản Lý Của Ngân Hàng Nn &ptnt Gia Lâm
- Kết Quả Nghiên Cứu Và Thảo Luận 41.thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Gia Lâm
Xem toàn bộ 341 trang tài liệu này.
Trong phân loại nợ, các NHTM Trung Quốc lấy việc đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng làm cốt lõi, xem thu nhập kinh doanh thông thường của khách hàng là nguồn vốn ưả nợ chủ yếu, tài sản đảm bảo là nguồn vốn ưả nợ thứ yếu. Đối vói khoản cho vay mói, ngân hàng xem xét lịch sử giao dịch, trạng thái uy tín của khách hàng với ngân hàng khác. Nếu khách hàng vay là
công ty mới thành lập chủ yếu xem xét lịch sử giao dịch, uy tín cổ đông. Lịch sử ưả nợ của khách hàng có thể phản ánh tình trạng gia hạn, quá hạn nợ vay của họ, đây là yếu tố quan trọng cần xem xét khi tiến hành phân loại các khoản tín dụng.
Trung Quốc đang đẩy nhanh tiến độ sắp xếp lại hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và năng lực quản trị, điều hành. Một trong những nỗ lực quan trọng đó là rót thêm vốn điều lệ cho các ngân hàng lớn, có năng lực tài chính tốt và khuyến khích họ cổ phần hoá, niên yết cổ phiếu ra công chúng.
2A.2.2. Singapore
* Kinh nghiệm của các ngân hàng thương mại Singapore
Bên canh việc xây dựng một hệ thống phòng ngừa nợ quá hạn, nợ xấu thông qua các cơ chế, chính sách cho vay, thành lập uỷ ban giám sát ngân hàng cũng như mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh hiện đại, Singapore quy định những người ký kết các khoản túi dụng phải chịu trách nhiệm trước tiên trong việc thực hiện phân loại tín dụng chính xác dựa trên những đánh giá về tình hình tổng thể (khả năng thanh toán từ các nguồn thu nhập thông thường, người bảo lãnh, tài sản ký quỹ, dòng tiền các điều kiện về tài chính, triển vọng phát triển...) và có thể thay đổi kết quả phân loại trong quá trình phê chuẩn thông thường hay vào bất cứ thời điểm nào khác.
Để phòng ngừa các khoản nợ xấu phát sinh, các ngân hàng thương mại Singapore được yêu cầu xây dựng “ Danh mục theo dõi” để nhận biết những dấu hiệu cảnh báo sớm vấn đề bất ổn về tín dụng. “Danh mục theo dõi” không phải là danh mục phân loại, mà là danh sách khách hàng đang tồn tại những vấn đề rủi ro tín dụng tiềm ẩn cần quan tâm. Những khách hàng có tên trong danh sách theo dõi không phải là những khách hàng bị xếp vào loại nợ cần chú ý hoặc thấp hơn, mà đều là những khách hàng được xếp loại nợ đủ tiêu chuẩn. Tuy nhiên trong trường hợp dấu hiệu cảnh báo sớm có nhiều
hướng có ảnh hưởng bất lợi đối với khách hàng vay, khi đó cần xem xét để có thể xếp loại khách hàng vào nhóm nợ cần chú ý hoặc thấp hơn.
Đối vói các khoản nợ được phân loại vào nợ xấu, thì tối đa ừong vòng 30 ngày làm việc, các cán bộ tín dụng phải chuyển ngay cho bộ phận quản lý tài sản đặc biệt để theo dõi để: xem xét lại tất cả các loại giấy tờ và tài sản ký quỹ, khi cần thiết có thể sửa đổi để hoàn chỉnh các giấy tờ và tài sản đó; Đánh giá khả năng của khách hàng và sẩn sàng thực hiện cơ cấu lại nợ trong một khoảng thời gian thích hợp; Trường hợp cần thiết sẽ tiến hành những thủ tục pháp lý thích hợp để thu hồi các khoản tín dụng; Đưa ra chiến lược thu hồi khoản nợ cũng như phân loại vào các nhóm nợ thích hợp; Tiến hành giám sát chặt chẽ và kiểm tra thường xuyên hơn đối vói các khoản nợ này.
Đối vói các khoản nợ xấu được trích lập dự phòng đầy đủ, MAS cho phép các ngân hàng thương mại được xoá nợ xuống còn 1 đôla Singapore, bất kể tình trạng có thể thu hồi được khoản nợ như thế nào. Điều này nhằm phục vụ cho các mục đích giám sát. Báo cáo danh mục các khoản nợ xấu và trích lập dự phòng cụ thể của các ngân hàng thương mại bắt buộc phải được nộp tới hội đồng quản tộ của ngân hnàg thương mại và MAS để quản lý.
Với việc quản lý nợ xấu như trên, nhìn chung tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng thương mại Singapore không cao và thông thường nếu có phát sinh một khoản nợ xấu ở ngân hàng thương mại thì gần như ngay lập tức khoản nợ đó sẽ được xử lý.
* Kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng ở DBS Bank
DBS Bank là ngân hàng đa năng, một ngân hàng điển hình ở Singapore, được thành lập năm 1968, phát triển theo mô hình tập đoàn tài chính. Hiện tại BDS Bank là ngân hàng có quy mô lớn nhất ở Singapore, có các chi nhánh ở Hồng Kông, Indonesia, Trung Quốc và Ấu Độ và nhiều nước hên thế giới. Là ngân hàng chiếm thị phần lớn ở khu vực Châu Á, BDS Bannk được đáng giá
là ngân hàng dẫn đầu ừong dịch vụ ngân hàng bán lẻ. BDS Bank cung cấp nguồn vốn dài hạn và ngắn hạn cho khách hàng, bao gồm các hoạt động tài trợ cho vay, hoạt động đầu tư tài chính, đầu tư chứng khoán. DBS Bank đã được xếp hạng tín dụng “AA_” và “Aa2” trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Năm 2002 ngân hàng đã nhận giải thưởng là ngân hàng quản trị rủi ro xuất sắc nhất của Châu á.
Quản trị rủi ro là một trong những chiến lược dài hạn của DBS bank,
được thực hiện và quán triệt ở nhiều cấp. DBS Bank đã có những chính sách nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động như: thuê công ty tư vấn hỗ trợ quản trị rủi ro; Xây dựng Hội đồng xử lý rủi ro; Chú trọng đầu tư con người và công nghệ cho hệ thống quản lý rủi ro. Công tác này luôn được kiểm tra và giám sát bỏi hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ của ngân hàng.
Theo báo cáo thường niên của BDS Bank, rủi ro mà DBS Bank quan tâm: Quản trị rủi ro; Rủi ro tín dụng; Rủi ro cấu trúc thị trường; Rủi ro thanh khoản; Rủi ro thương mại. Theo DBS Bank thì rủi ro túi dụng là rủi ro do khách hàng không thực hiện nghĩa vụ của mình về khoản nợ. Rủi ro túi dụng từ một số hoạt động như: hoạt động cho vay, hoạt động thương mại, hoạt động về chứng khoán phát sinh và một số hoạt động trong thanh toán các giao dịch.
Công tác quản trị rủi ro tín dụng của DBS Bank thể hiện ở một số mặt sau:
+ Chính sách tín dụng là những nguyên tắc chung nhất, thống nhất chi
phối toàn bộ hoạt động túi dụng, hướng dẫn và chỉ đạo chung hoạt động tín dụng.
+ Hội đồng xử lý rủi ro chịu trách nhiệm họp bàn và đưa ra những quyết định những vấn đề rủi ro và quản lý rủi ro như: mức cho vay, hạn mức, chính sách tín dụng, quyết định ngừng cấp tín dụng và một số nhiệm vụ khác. Hội đồng xử lý rủi ro còn chịu trách nhiệm kiểm tra tình trạng tín dụng
những khoản tín dụng lớn và có dấu hiệu rủi ro, xác định danh mục đầu tư. Ngoài ra Hội đồng xử lý rủi ro còn có nhiệm vụ cập nhật, thay đổi chính sách tín dụng, chính sách hạn mức theo sự biến động tình hình kinh tế chính trị của vùng, ngành.
+ Danh mục tín dụng được phân tích và phê duyệt theo từng nhóm khách hàng dựa trên việc đánh giá rủi ro. Mỗi người vay sẽ được tính điểm bởi “Hệ thống xếp hạng rủi ro”. Với đa số các khách hàng, việc xếp hạng rủi ro dựa vào một số tiêu chí sau: tình hình tài chính, điều kiện kinh doanh, thị phần, vốn và trình độ quản lý. Hệ thống đánh giá tín dụng là công cụ để đánh giá cơ cấu tín dụng, tài sản đảm bảo, bảo lãnh và rủi ro chuyển đổi khác vì vậy có thể coi đây là công cụ để đánh giá chất lượng danh mục tín dụng, đo lường rủi ro và cuối cùng là để đưa ra quyết định.
+ Uỷ ban đánh giá tài sản có trách nhiệm tham gia cùng hội đồng xử lý rủi ro đưa ra chính sách túi dụng và quản lý rủi ro túi dụng. Bên cạnh đó, Uỷ ban còn thực hiện việc giám sát rủi ro lãi suất, tỷ giá.
+ Điều hành rủi ro: xây dựng khung pháp lý điều hành rủi ro, đưa ra cơ chế tự kiểm soát đánh giá, từ đó đo lường từng đơn vị rủi ro và cơ chế quản lý từng đơn vị rủi ro đó.
+ Thực hiện theo chương trình Basel II: Uỷ ban Basel được thành lập đảm bảo DBS Bank hoạt động theo tiêu chuẩn của Basel II.
2.4.2.3. Thái Lan
Hệ thống ngân hàng Thái Lan đã có bề dầy hoạt động hàng trăm năm nhưng đứng trước cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997-1998 vẫn bị chao đảo. Nhiều công ty tài chính và ngân hàng thương mại bị phá sản hoặc bị bắt buộc phải sáp nhập. Tình hình đó buộc các ngân hàng Thái Lan phải xem xét lại toàn bộ chính sách, cách thức, quy trình hoạt động ngân hàng, trong đó đặc biệt là hoạt động tín dụng, nhằm giảm thiểu rủi ro .... Đi đôi với việc đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng và dịch vụ, xác định khách hàng,
mục tiêu, chủ động tiếp thị khách hàng... một loạt thay đổi căn bản trong tín dụng đã được ngân hàng Thái Lan triển khai nhanh chóng và triệt để. Cụ thể như sau:
*Tách bạch, phân công rõ chức năng của cán bộ và tuân thủ các khâu trong quy trình giải quyết các khoản vay.
-Tại Băngkok Bank, trước đây, các bộ phận trong quy trình này gộp làm
một, nay ngân hàng đã tách hẳn thành hai bộ phận độc lập với nhau: bộ phận tiếp nhận, giải quyết hồ sơ và bộ phận thẩm đinh. Trong đó, bộ phận thẩm đinh phải báo cáo thẩm đinh tín dụng, gồm: chiến lược và kế hoạch kinh doanh, báo cáo xếp hạng rủi ro .... Đây là một thay đổi căn bản của Bangkok Bank nhằm đảm bảo tính độc lập trong quá trình làm việc.
-Tương tự, tại Siam Commercial Bank (SCB) cũng đã xây dựng mô hình tổ chức triển khai dịch vụ túi dụng theo nguyên tắc phân dinh rõ trách nhiệm của ba bộ phận: marketing khách hàng, bộ phận thẩm định và bộ phận quyết dinh cho vay.
Ngân hàng đã phân loại khách hàng theo từng nhóm khác nhau: khách hàng tiêu dùng (chủ yếu), khách hàng kinh doanh, khách hàng cá nhân (giầu, nghèo...) từ đó nhận rõ tính chất khác nhau làm cơ sở cho các bộ phận nói trên trong việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ, thẩm đinh và quyết dinh cho vay.
*Tuân thủ nghiêm, ngặt các vấn đề có tính nguyên tắc trong tín dụng
Các ngân hàng Thái Lan đã quan tâm và thực hiện triệt để các nguyên
tắc túi dụng, đặc biệt là các thông tin về khách hàng phải được giải đáp
thông qua một loạt các câu hỏi về: tư cách khách hàng, mục đích khoản vay, nguồn trả nợ, năng lực quản trị điều hành, hiệu quả kinh doanh, thực trạng tài chính của khách hàng, khả năng kiểm soát khoản vay của ngân hàng....Để đáp ứng các câu hỏi trên, ngân hàng phải phân tích tài chính trong đó rất coi trọng đến vòng chu chuyển dòng tiền và vòng thu hồi vốn đầu tư của khách
hàng, đánh giá được rủi ro của khoản vay dựa trên các căn cứ: báo cáo tài chính, các chi tiêu tài chính trọng yếu như: vòng quay hàng tồn kho, vòng quay các khoản phải thu, điểm hoà vốn, lợi nhuận/vốn chủ sở hữu, khả năng trả lãi, dòng tiền,
các nhân tố ảnh hưởng đến dòng tiền, yếu tố đinh tính và những nhân tố làm thay đổi lợi nhuận hoặc tỷ suất lợi nhuận.
Trên cơ sở phân tích, ngân hàng dự báo và nhận đinh về: rủi ro trong kinh doanh và rủi ro ngành; cấu trúc chi phí; lợi nhuận; kỹ thuật; công nghệ; vòng đời sản phẩm; tính độc lập và tính toàn cầu hoá; môi trường hoạt động; rủi ro có tính chu kỳ; mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp... Tất cả những thông tin phân tích nói trên làm cơ sở để phán đoán mức độ rủi ro, so sánh với xu hướng của ngành sản xuất, của doanh nghiệp tương tự.
Hiện nay Tài sản tài chính không được coi là số một như trước mà điều đáng quan tâm là “dòng tiền”, gắn vói cơ cấu món vay theo thời gian để xem xét doanh nghiệp có trả nợ đúng hạn được không, Tài sản tài chính vẫn phải được coi trọng, nhưng không coi đó là nguồn trả nợ, mà chỉ là nguồn để xử lý các khoản nợ khi rủi ro xẩy ra.
*Cho điểm khách hàng
Cho điểm khách hàng để quyết định cho vay hay không. Tại Siamcity Bank (SCIB), hạng tín dụng được xếp theo các hạng từ AAA (chất lượng cao, rủi ro thấp, khả năng trả nợ cao nhất) đến D (nguy cơ vỡ nợ). Trong đó,
hạng có thể xét cho vay được xếp từ AAA+, AAA, AAA-, A+,A-; BBB+,
BBB, BBB-, các hạng còn lại là BB+, BB, BB-; C; D. Các hạng tín dụng này áp dụng theo tiêu chuẩn của s & p (Standard and Poor).
*Tuân thủ thẩm quyền phán quyết tín dụng.
Theo cách này, quy đinh việc quyết đinh tín dụng theo mức tăng dần: mức phán quyết của một người, một nhóm người hay Hội đồng quản trị. Những khoản vay vượt quá mức quy đinh thì phải chuyển cho bộ phận thẩm
định độc lập để thẩm đinh trước khi trình lên cấp trên có thẩm quyền phê duyệt các khoản vay.
*Giám sát cho vay
Sau khi cho vay, ngân hàng rất coi trọng việc kiểm tra, giám sát các khoản vay bằng cách tiếp tục thu thập thông tin về khách hàng, thường xuyên giám sát và đánh giá xếp loại khách hàng để có biện pháp xử lý kịp thời các tình huống rủi ro.
Ngoài những vấn đề nêu trên, các ngân hàng Thái Lan đều rất coi trọng việc cập nhật hiểu biết nghề nghiệp cho nhân viên ngân hàng, liên tục đào tạo theo từng công việc để nâng cao trình độ, kỹ năng và tạo khả năng thực thi độc lập nhiệm vụ được phân công. Các ngân hàng đều áp dụng sổ tay túi dụng cho các ngân hàng thương mại (gồm 24 chương) được viết rất công phu và rõ ràng, dễ áp dụng; có chính sách cho vay riêng đối vói bất động sản là lĩnh vực có rủi ro rất cao.
2.4.24.Ngân hàng Grameen ở Bangladesh
Ngân hàng Grameen (GB) là định chế tài chính nổi tiếng nhất thể giới về túi dụng nông thôn. GB có mạng lưới chi nhánh rộng khắp đến tận cấp cơ sở, mỗi chi nhánh phục vụ từ 15 đến 22 làng. Đối tượng phục vụ là các gia đình có chưa đến 0,2 ha đất. Để vay được túi dụng, ngưòi trong những gia đình có đủ tiêu chuẩn sẽ lập thành một nhóm gồm năm ngưòi có hoàn cảnh kinh tế và xã hội gần giống nhau. Mỗi nhóm bầu trưởng nhóm và một thư ký để chủ trì cuộc họp hàng tuần. Sau khi nhóm được thành lập, một nhân viên ngân hàng sẽ đến thăm gia đình và kiểm tra tư cách của mỗi thành viên để lấy thông tin về tài sản, thu nhập....
Khoảng năm hoặc sáu nhóm sẽ lập nên một trung tâm trong cùng địa phương. Từ các trưởng nhóm sẽ bầu ra trưởng trung tâm, là người chịu trách nhiệm giúp các thành viên tìm hiểu về kỷ cương của ngân hàng, và chủ trì cuộc họp hàng tuần. Tất cả các thành viên sẽ dự một khoá hướng dẫn kéo