thuế bao gồm tờ khai lần đầu/bổ sung, tờ khai theo từng lần phát sinh, tờ khai quyết toán thuế, báo cáo tài chính, báo cáo hóa đơn, biên lai thu phí, lệ phí phải nộp theo quy định. Bên cạnh đó, cơ quan thuế cũng đã triển khai hệ thống trao đổi thông tin giữa cơ quan thuế và cơ quan đăng ký đất đai để hỗ trợ nhiều cục thuế triển khai, sử dụng hệ thống trao đổi thông tin giữa cơ quan thuế và cơ quan đăng ký đất đai. Việc triển khai dịch vụ khai và nộp thuế điện tử đã
giúp cơ quan thuế, DN và các ngân hàng giảm thời gian thực hiện thủ tục;
giảm chi phí cho DN và xã hội, đặc biệt, đã góp phần công khai, minh bạch thông tin cho NNT.
Thứ ba, triển khai dịch vụ hoàn thuế điện tử: Thực hiện Nghị quyết số 36a/NQCP của Chính phủ về Chính phủ điện tử, Tổng cục Thuế đã tổ chức phân tích và nâng cấp các ứng dụng theo dự thảo quy trình tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT) bằng phương thức điện tử. Để đảm bảo căn cứ pháp lý cho việc triển khai thí điểm dịch vụ hoàn
thuế
điện tử, Bộ
Tài chính đã ban hành Quyết định số
2790/QĐBTC ngày
27/12/2016 về
việc áp dụng thí điểm tiếp nhận hồ
Có thể bạn quan tâm!
- Công Cụ Phân Tích Và Kiểm Định Mô Hình Nghiên Cứu
- Đánh Giá Thực Trạng Quản Lý Thuế Đối Với Doanh Nghiệp
- Đánh Giá Của Doanh Nghiệp Về Việc Thực Hiện Các Thủ Tục Thuế
- Thực Trạng Tuân Thủ Thuế Của Doanh Nghiệp Trên Địa Bàn Thành Phố Hồ Chí Minh
- Các Biến Quan Sát Và Thang Đo Chất Lượng Tốt Sau Kiểm Định
- Kiểm Định Về Hiện Tượng Đa Cộng Tuyến Giữa Các Biến Độc Lập
Xem toàn bộ 202 trang tài liệu này.
sơ và trả
kết quả
giải
quyết hoàn thuế GTGT bằng phương thức điện tử.
Thứ tư, ứng dụng CNTT trong công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm tra nội bộ: Để đáp ứng yêu cầu quản lý, tổng hợp, chỉ đạo điều hành trong công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế các cấp, ngay từ đầu năm 2016, cơ quan thuế đã nâng cấp bổ sung các mẫu báo cáo nhanh, nhằm hỗ trợ cơ quan thuế trong việc lập và tổng hợp báo cáo trên ứng dụng, đồng thời ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cơ quan thuế các cấp thực hiện việc rà soát, cập nhật dữ liệu vào ứng dụng theo dõi kết quả thanh tra, kiểm tra. Tổng cục Thuế đã tiến hành nâng cấp ứng dụng phân tích rủi ro (TPR) sửa đổi cách lấy dữ liệu trên các tiêu chí được quy định tại Quyết định số 2176/QĐTCT ngày 10/11/2015 của Tổng cục Thuế về việc cơ quan thuế các cấp áp dụng quản lý rủi ro trong công tác lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở NNT đáp
ứng các chỉ
tiêu của bộ
báo cáo tài chính được quy định tại Thông tư số
200/TTBTC thay thế bộ báo cáo tài chính ban hành theo Quyết định số
15/QĐBTC về chế độ kế toán doanh nghiệp có hiệu lực từ năm 2015. Trong công tác kiểm tra nội bộ, đến nay, cơ quan thuế đã và đang tiếp tục nâng cấp ứng dụng kiểm tra nội bộ, đáp ứng các nội dung nghiệp vụ quy định tại quy trình tiếp công dân, quy trình khiếu nại tố cáo, quy trình kiểm tra nội bộ và các yêu cầu của người sử dụng sau khi áp dụng phân tích rủi ro theo các bộ tiêu chí về công tác thanh tra thuế, kiểm tra thuế, hoàn thuế, quản lý nợ thuế lập kế hoạch kiểm tra nội bộ hàng năm của ngành Thuế.
5. Những hạn chế, tồn tại trong quản lý thuế đối với doanh nghiệp
Bên cạnh nhiều thành tựu đáng kể, công tác quản lý thuế đối với các
doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh cũng đối mặt với không ít khó khăn trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Các cơ quan thuế trên địa bàn thành phố đã liên tục triển khai nhiều hoạt động khác nhau, ứng dụng những cải cách theo tình hình mới, các doanh nghiệp vẫn đòi hỏi không ngừng có thêm những cải biến về quản lý thuế để tiết kiệm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ thuế theo đúng quy định pháp luật. Kết quả khảo sát ý kiến của các chuyên gia và các doanh nghiệp về các hoạt động quản lý thuế của cơ
quan thuế đều đạt mức trung bình trong khoảng 3,09/5 – 3,67/5 cho thấy
những thành tựu trong quản lý thuế của cơ quan thuế tại Thành phố Hồ Chí Minh được công nhận, tuy nhiên vẫn còn những khía cạnh yêu cầu được cải thiện và nâng cao.
Những mặt hạn chế, tồn tại trong công tác quản lý thuế được tóm tắt như sau:
Thứ nhất, về tuyên truyền hỗ trợ doanh nghiệp:
Công tác tuyên truyền hỗ trợ của Cơ quan thuế tại Thành phố Hồ Chí Minh được các doanh nghiệp đánh giá điểm trung bình là 3,12/5 và các chuyên gia đánh giá điểm trung bình là 3,54/5. Các nội dung đánh giá trong công tác tuyên truyền hỗ trợ của cơ quan thuế đối với doanh nghiệp đều được đánh giá với giá trị trung bình từ 3,05 – 3,89. Khoảng cách chênh lệch trong ý kiến đánh
giá giữa các chuyên gia và các doanh nghiệp cho thấy, các chuyên gia quản lý thuế đã có nhiều nỗ lực trong công tác tuyên truyền, hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế. Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự nhận được nhiều lợi ích, trợ giúp từ cơ quan thuế, và vẫn còn khoảng cách giữa kỳ vọng hỗ trợ của cơ quan thuế và mức nhận được của doanh nghiệp. Mặt khác, thang điểm đánh giá của các chuyên gia và doanh nghiệp cho thấy hoạt động tuyên truyền hỗ trợ đối với doanh nghiệp vẫn còn hạn chế và kỳ vọng được cải thiện tốt hơn.
Việc giải đáp câu hỏi, vướng mắc về thuế của doanh nghiệp được đánh giá thấp nhất trong các nội dung tuyên truyền hỗ trợ (giá trị trung bình 3,05). Cơ quan thuế tại Thành phố Hồ Chí Minh hỗ trợ giải đáp các vướng mắc cho các doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức đa dạng như hỗ trợ trực tiếp qua bộ phận “một cửa” tại cơ quan thuế các cấp, bằng văn bản, định kỳ tổ chức Hội nghị đối thoại, ... Tuy nhiên, về chiều sâu giải đáp vấn đề, doanh nghiệp còn gặp khó khăn do không được hướng dẫn cụ thể, chính xác. Đối với những
vấn đề không được quy định rõ ràng trong pháp luật thuế, doanh nghiệp
thường gặp khó khăn trong việc áp dụng, nhưng lại không được cơ quan thuế hướng dẫn thống nhất giữa những cán bộ thuế, quản lý thuế, dẫn đến việc doanh nghiệp khó hoàn thành nghĩa vụ thuế đúng đắn. Các doanh nghiệp cần được hướng dẫn cụ thể, dể hiểu, chi tiết để có thể áp dụng đúng, nhất là các thủ tục liên quan đến tính thuế, khai thuế, nộp thuế, hóa đơn điện tử, …
Đối với các công văn trả lời doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp nhận
được công văn phúc đáp với nội dung không tập trung vào vấn đề vướng mắc mà doanh nghiệp hỏi, trả lời một cách chung chung hoặc trích dẫn văn bản pháp luật thuế có nội dung không rõ, làm doanh nghiệp phải tiếp tục hỏi hoặc không biết nên thực thi như thế nào.
Liên quan đến cổng thông tin điện tử, hiện nay cơ quan thuế Thành phố Hồ Chí Minh có địa chỉ hỗ trợ và giao dịch với doanh nghiệp, tuy nhiên chức năng của hệ thống còn hạn chế, chưa đảm bảo việc thực hiện đúng tính chất giao dịch một cửa, có khi gây bối rối cho doanh nghiệp. Do mỗi địa chỉ phục
vụ một mục đích khác nhau nên việc liên kết thông tin còn chưa kịp thời, đồng bộ ...
Thứ hai, về quản lý thông tin doanh nghiệp nộp thuế: Công tác quản lý thông tin doanh nghiệp nộp thuế dù đã đạt được hiệu quả đáng kể, nhưng vẫn còn một số khó khăn. Kết quả khảo sát ý kiến của các chuyên gia đánh giá trung bình nội dung quản lý thuế này là 3,34/5, với các nội dung chi tiết được
đánh giá trung bình từ 3,21/5 – 3,43/5. Nội dung quản lý thông tin doanh
nghiệp nộp thuế được các chuyên gia đánh giá tốt ở một số mặt và đồng thời cũng cần không ngừng củng cố, cải thiện.
Trong công tác quản lý thông tin doanh nghiệp nộp thuế, bảo mật thông tin của doanh nghiệp cũng là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất. Tuy nhiên nội dung này được đánh giá thấp hơn so với các nội dung khác (3,21/5). Vẫn còn trường hợp thông tin của doanh nghiệp được bàn luận công khai, sử dụng vì mục đích riêng. Nếu thông tin doanh nghiệp không được bảo mật sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho doanh nghiệp, và làm doanh nghiệp đó mất lòng tin vào cơ quan quản lý.
Mặt khác, thông tin của doanh nghiệp nộp thuế chủ yếu do doanh nghiệp cung cấp thông qua các tờ khai và hồ sơ yêu cầu đính kèm. Do đó, mức độ tin cậy của thông tin chủ yếu phụ thuộc vào mức độ tin cậy và trung thực của hồ sơ nộp cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế không thể kiểm tra hết toàn bộ thông tin của từng doanh nghiệp mà chủ yếu dựa vào hồ sơ được cung cấp.
Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp không cập nhật thông tin mới/thay đổi liên quan đến hồ sơ thuế, thì thông tin của doanh nghiệp cũng không được cập nhật. Việc này sẽ có ảnh hưởng đến quy trình, hoặc có khi ảng hưởng đến việc kê khai, nộp thuế. Do đó, việc quản lý thông tin của doanh nghiệp nộp thuế chủ yếu dựa vào mức độ tự nguyện của doanh nghiệp.
Thứ ba, về quản lý đăng ký, kê khai và thu thuế: Công tác quản lý thuế
này được đánh giá trung bình ở mức 3,09/5 (doanh nghiệp đánh giá) và 3,55 (chuyên gia đánh giá). Đây là nội dung mà doanh nghiệp đánh giá trung bình
thấp nhất trong các nội dung quản lý thuế được khảo sát vì tính chi tiết, phức tạp trong thủ thục, nội dung, cách tính toán về thuế. Ý kiến đánh giá của các chuyên gia và doanh nghiệp vẫn có khoảng cách khá chênh lệch so với các nội dung khác. Theo ý kiến của các chuyên gia và các doanh nghiệp được khảo sát, công tác quản lý về đăng ký, xác định và thu thuế vẫn còn một số tồn tại và hạn chế, trong đó:
Về việc xác định số thuế phải nộp của doanh nghiệp, cơ sở pháp lý về thuế đóng vai trò rất quan trọng. Một số quy định chưa rõ ràng sẽ gây trở ngại cho cán bộ thuế trong việc diễn giải và thực thi quy định. Trong những trường hợp quy định không rõ ràng, chi tiết, cán bộ, công chức thuế thường sẽ suy diễn quy định tính thuế theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp, làm tăng số thuế phải nộp hoặc làm giảm số thuế được hoàn của doanh nghiệp. Trong trường
hợp này, doanh nghiệp muốn giải trình hoặc gửi công văn trình bày sẽ tốn
thời gian và chi phí. Do đó, nội dung tính và khai thuế, nộp thuế rất dễ xảy ra bất đồng quan điểm giữa cơ quan quản lý thuế và doanh nghiệp nộp thuế.
Ngoài ra, cơ quan thuế chưa xây dựng và triển khai việc nộp thuế, hoàn
thuế
thông qua tài khoản chuyên thu của cơ
quan thuế mở
tại ngân hàng
thương mại (do Kho bạc Nhà nước tạm thời chưa thực hiện mở tài khoản chuyên thu của cơ quan thuế tại các ngân hàng thương mại); chưa ban hành quy trình thu NSNN bằng các phương thức điện tử; chưa ban hành Quy trình tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế và thông báo kết quả giải quyết hồ sơ hoàn thuế qua mạng.
Thứ tư, về quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế: Công tác quản lý nợ và
cưỡng chế nợ
thuế
được các chuyên gia đánh giá ở
mức trung bình 3,66/5,
mức đánh giá khá cao so với các nội dung quản lý thuế khác. Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế của cơ quan thuế có cơ sở pháp lý và trình tự, thủ tục rõ ràng theo quy định pháp luật về thuế. Tuy nhiên, kết quả đánh giá trung bình 3,66/5 cho thấy trong thực tế cơ quan thuế chưa thực sự đạt được hiệu quả mong đợi trong việc thưc thi quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế đối với doanh
nghiệp nợ thuế. Hiện nay, công tác quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế đối với các doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn đối mặt nhiều hạn chế và khó khăn.
Khó khăn đầu tiên là số
lượng nợ
thuế
quá nhiều (hơn 1500 doanh
nghiệp, trong khi lực lượng quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế rất có hạn. Có nhiều doanh nghiệp không đủ nguồn tài chính để trả nợ thuế, không thể tiếp tục hoạt động, dẫn đến cơ quan thuế không thu hồi được.
Hệ thống đối chiếu nợ
thuế
hiện tại chưa được nhiều doanh nghiệp
đánh giá cao. Thông tin về nợ chưa đủ chi tiết và có khi không cập nhật đầy đủ thông tin. Một số trường hợp doanh nghiệp phản ánh thông báo nợ thuế của cơ quan thuế bị sai sót, số tiền thuế đã nộp chưa được cập nhật. Trong trường hợp này, doanh nghiệp phải giải trình, chứng minh hồ sơ, đối chiếu và
làm việc với nhiều phòng ban của cơ thời gian.
quan thuế rất phức tạp và tốn nhiều
Bên cạnh đó, việc phối hợp giữa các cơ quan hữu quan còn chậm và
chưa trôi chảy, làm cho quá trình cưỡng chế nợ thuế không thực sự hiệu quả.
Thứ năm, về thanh tra, kiểm tra thuế
Kết quả đánh giá ý kiến về hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế của các chuyên gia và doanh nghiệp không có nhiều chênh lệch, với mức trung bình 3,47/5 (chuyên gia đánh giá) và mức trung bình 3,38/5 (doanh nghiệp đánh giá).
Mức đánh giá trung bình này cũng thể hiện việc các chuyên gia và doanh
nghiệp ghi nhận những hạn chế, khó khăn trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế của cơ quan thuế tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Cơ quan thuế tại thành phố chưa xây dựng hệ thống quản lý luồng công việc kết hợp với giám sát hoạt động các đơn vị thanh tra, kiểm tra các cấp
trong ngành thuế; chưa ban hành cơ
chế
đánh giá hiệu quả
công chức làm
công tác thanh tra, kiểm tra, làm cơ sở cho việc bố trí, sử dụng, luân phiên, luân chuyển; chưa nghiên cứu cơ chế và thực hiện triển khai rộng việc sát
hạch kiến thức và kỹ năng thanh tra, kiểm tra thuế hàng năm đối với công
chức làm công tác thanh tra, kiểm tra trong toàn ngành; chậm ban hành mô hình
trao đổi nghiệp vụ và kỹ ngành..,
năng thanh tra, kiểm tra thuế tập trung trong toàn
Nguồn lực dành cho công tác thanh tra còn chưa đáp ứng về số lượng và chất lượng so với yêu cầu quản lý thuế; phương pháp kỹ năng thanh tra, kiểm tra có bước chuyển biến nhưng còn chậm chưa theo kịp diễn tiến và sự phát triển nhanh chóng của các tập đoàn, công ty đa quốc gia đa ngành nghề lĩnh vực.
Trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế, nhiều doanh nghiệp trên địa bàn vẫn còn gặp tình trạng suy diễn bất lợi cho doanh nghiệp từ đoàn kiểm tra, thanh tra và nội dung kiểm tra, thanh tra bị trùng lắp. Tình trạng các doanh nghiệp bị suy diễn bất lợi, làm tăng số thuế phải nộp trong các trường hợp quy định không rõ ràng khi thanh tra, kiểm tra thuế là vấn đề rất cố hữu đã xảy ra trong nhiều năm và hầu như các doanh nghiệp đều từng gặp phải.
Ngoài ra, hiện tượng nhũng nhiễu, gây khó dễ cho doanh nghiệp của cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế vẫn tồn tại, đặc biệt là trong việc yêu cầu doanh nghiệp cung cấp các hồ sơ, tài liệu. Trong một số trường hợp, cán bộ thuế chỉ biết trích dẫn văn bản pháp luật về thuế mà không biết các quy định khác có liên quan đến việc xác định thuế, dẫn đến việc suy diễn bất lợi cho doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp phải tốn nhiều thời gian và công sức để giải thích hoặc khiếu nại.
Thứ sáu, về xử lý vi phạm pháp luật thuế
Kết quả khảo sát đánh giá về công tác xử lý vi phạm pháp luật về thuế của cơ quan thuế tại thành phố Hồ Chí Minh được các chuyên gia (trung bình 3,61/5) và doanh nghiệp (trung bình 3,59/5) đánh giá khá tốt so với các nội
dung còn lại. Tuy nhiên mức đánh giá này cũng cho thấy công tác xử lý vi
phạm pháp luật về phục.
thuế
còn có những tồn tại và khó khăn cần được khắc
Quản lý việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế có cơ sở pháp lý rõ ràng và phụ thuộc nhiều vào việc thực thi quy định pháp luật của cán bộ, công chức thuế trong thực tiễn, cũng như hệ thống quản lý thông tin doanh nghiệp nộp
thuế để phát hiện ra những trường hợp vi phạm hoặc rủi ro vi phạm pháp
luật về thuế. Việc cán bộ, công chức thuế trên địa bàn chưa thực thi triệt để xử lý vi phạm, hoặc bỏ sót các trường hợp cần xử phạt vẫn còn tồn tại do
nhiều nguyên nhân như số lượng doanh nghiệp nộp thuế quá nhiều, không
quản lý hiệu quả hồ sơ khai nộp thuế, hệ thống thông tin doanh nghiệp nộp thuế chưa đầy đủ và chính xác để xác định các vi phạm hoặc rủi ro vi phạm pháp luật về thuế, cán bộ, công chức thuế chưa nghiêm minh trong thực thi pháp luật thuế, …
Bên cạnh đó, hiện nay cơ chế giám sát, kiểm tra, thanh tra thuế đối với doanh nghiệp có thể thông qua nhiều cơ quan như: Cơ quan Thuế, cơ quan Thanh tra Nhà nước, Thanh tra chuyên ngành, Cơ quan Kiểm toán Nhà nước...
Tuy nhiên, về cơ chế xử lý sau thanh tra, kiểm toán: do qui định chức năng,
thường thì cơ quan Thanh tra Nhà nước và cơ quan kiểm toán chỉ ra kết luận truy thu hay kiến nghị thu hồi số thuế nhà nước đã hoàn cho doanh nghiệp mà không tiến hành xử phạt hành chính theo qui định mà việc này được giao cho cơ quan thuế. Do đó, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thuế và các cơ quan quản lý, thanh tra kiểm tra thuế cần rõ ràng trong cả quá trình kiểm tra và sau kiểm tra.
Thứ bảy, về giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế
Theo kết quả khảo sát, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế của cơ quan thuế được các chuyên gia đánh giá ở mức trung bình 3,39/5 và doanh nghiệp đánh giá mức trung bình 3,16/5. Dựa trên cơ sở pháp lý về xử lý khiếu
nại, tố
cáo về
thuế, cơ
quan thuế
Thành phố
Hồ Chí Minh đã giải quyết
nhiều đơn thư
khiếu nại, tố
cáo. Tuy nhiên, ý kiến của các chuyên gia và
doanh nghiệp đều cho rằng công tác quản lý việc giải quyết khiếu nại, tố cáo