6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục liên quan, luận văn được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quản lý rủi ro tín dụng của NHTM.
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt – Chi nhánh Hà Nam.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt – Chi nhánh Hà Nam.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Nghiệp vụ tín dụng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt - Chi nhánh Hà Nam - 1
- Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt - Chi nhánh Hà Nam - 2
- Nội Dung Của Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Của Ngân Hàng Tmcp Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam - Chi Nhánh Hà Nam
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
1.1.1. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại
Theo tác giả Mai Văn Ban (2012), Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Học viện Tài chính: Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ trong các hoạt động cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và cho thuê tài chính, trong đó, hoạt động cho vay được xem là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng trung gian nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng.
Hoạt động cho vay trong tín dụng ngân hàng rất đa dạng và phong phú. Sau đây là một số loại hình tín dụng chủ yếu:
- Cho vay ứng trước: Cho vay ứng trước là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cung cấp cho ngư i đi vay một khoản tiền vay nhất định để sử dụng trước. Ngư i đi vay chỉ phải trả lãi vào lúc hoàn trả vốn gốc. Cho vay ứng trước có hai loại:
+ Cho vay ứng trước có bảo đảm: Là cho vay có bảo đảm bằng việc thế chấp, cầm cố tài sản hoặc có sự bảo lãnh.
+ Cho vay ứng trước không có bảo đảm: Là cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng đối với Ngân hàng mà không cần có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh. Do vậy gọi là cho vay tín chấp.
- Cho vay theo hạn mức: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng và khách hàng thỏa thuận trước số tiền tối đa (gọi là hạn mức tín dụng) mà khách hàng được vay từ ngân hàng trong một khoảng th i gian nhất định.
Sau khi đã thỏa thuận về hạn mức tín dụng, khách hàng có thể vay làm nhiều lần trong khoảng th i gian thỏa thuận mà không phải làm đơn xin vay với điều kiện tổng số tiền của các lần vay không vượt quá hạn mức tín dụng. Hình thức cho vay này thư ng được áp dụng với khách hàng có nhu cầu vay vốn thư ng xuyên.
- Cho vay thấu chi: Là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trong đó Ngân hàng cho phép khách hàng chi vượt quá số tiền dư trên tài khoản vãng lai trong một hạn mức và th i hạn nhất định trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng.
- Cho vay chiết khấu: Là cho vay dưới hình thức ngân hàng thương mại mua lại các thương phiếu chưa đến hạn trả tiền với giá thấp hơn số tiền ghi trên thương phiếu. Khi đến hạn, ngân hàng sẽ đòi toàn bộ số tiền ghi trên thương phiếu ở ngư i trả tiền thương phiếu. Phần lãi của ngân hàng chính là chênh lệch giữa giá mua và số tiền ghi trên thương phiếu.
- Tín dụng ủy thác thu hay bao thanh toán (Factoring): Là nghiệp vụ trong đó công ty "factor" - công ty con của ngân hàng - cam kết mua lại các khoản thanh toán chưa tới hạn phát sinh từ những hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hóa và dịch vụ với giá chiết khấu. Các khoản nợ này thư ng là ngắn hạn (từ 30 đến 120 ngày).
- Tín dụng thuê mua (Leasing): Còn được gọi là tín dụng thuê mua, là hình thức tín dụng trung, dài hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê tài sản như máy móc, thiết bị, các động sản và các bất động sản khác. Ngân hàng sẽ dùng vốn của mình để mua tài sản theo yêu cầu của ngư i thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê.
- Tín dụng bằng chữ kí (bảo lãnh): Là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng không trực tiếp cho khách hàng vay bằng tiền nhưng bằng uy tín (chữ kí) của mình, ngân hàng tạo điều kiện để khách hàng sử dụng vốn vay của người khác và đảm bảo thanh toán hộ khách hàng. (Theo Mai Văn Ban (2012), Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Học viện Tài chính).
1.1.2. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm
Theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, rủi ro tín dụng được định nghĩa như sau: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ
chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Như vậy, RRTD là những biến cố không mong đợi xảy ra và gây tổn thất đối với tài sản của ngân hàng. Xét về khía cạnh của ngân hàng, RRTD đồng nghĩa với thu nhập dự tính của ngân hàng từ các tài sản có sinh l i không được hoàn trả đầy đủ cả về mặt số lượng và th i hạn.
Trong kinh doanh ngân hàng, rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất, thư ng xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề có khi dẫn đến phá sản ngân hàng. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phức tạp nhất, việc quản lý và phòng ngừa nó rất khó khăn, nó có thể xảy ra ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào và do nhiều nguyên nhân gây ra. Do vậy, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ.
1.1.2.2. Phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Tùy theo tiêu chí phân loại, RRTD được chia thành các loại khác nhau.
* Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, RRTD được phân chia thành các loại sau:
- Rủi ro giao dịch là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có 3 bộ phận chính là rủi ro nghiệp vụ, rủi ro lựa chọn và rủi ro bảo đảm.
+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro đảm bảo phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản bảo đảm, chủ thể bảo đảm, cách thức bảo
đảm và mức cho vay trên giá trị của tài sản bảo đảm.
- Rủi ro danh mục là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng.
* Theo phương diện quản lý, RRTD bao gồm:
- Rủi ro tín dụng có thể kiểm soát được là loại RRTD mà ngân hàng có thể phần nào dự đoán được chủ thể gây ra rủi ro đó, ước lượng tính được mức độ ảnh hưởng, dự kiến được th i gian chúng phát sinh và từ đó có biện pháp hợp lý để phòng ngừa, hạn chế ở mức thấp nhất.
- Rủi ro tín dụng không thể kiểm soát được là loại RRTD mà các ngân hàng không thể dự đoán được, không biết chúng sẽ xảy ra vào th i điểm nào, cũng không thể tính toán được một cách chính xác nhất những ảnh hưởng mà chúng gây ra. Những rủi ro tín dụng loại này thư ng không do con ngư i gây ra mà chủ yếu là do những bấỉ lợi về các yếu tố tự nhiên gây ra như hạn hán. lũ lụt, mất mùa, hoả hoạn... (còn gọi là rủi ro bất khả kháng).
Các NHTM thư ng phải tập trung vào ngăn chặn những rủi ro có thể kiểm soát được, còn rủi ro không thể kiểm soát được chỉ còn cách chống đỡ.
1.2. Quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Peter S. Rose (2004) cho rằng: Quản lý rủi ro là một trong những nội dung quản lý của ngân hàng thương mại bao gồm: Nhận biết và đánh giá mức độ rủi ro, thực thi các biện pháp hạn chế khả năng xảy ra rủi ro và giảm thiểu tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra.
Theo Ủy ban Basel: Quản lý rủi ro tín dụng là việc thiết lập cơ chế nhận biết, đo lường, quản lý và kiểm soát được các rủi ro hiện tại và rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng một cách đầy đủ, nhằm tối đa hóa lợi nhuận được điều chỉnh theo yếu tố rủi ro bằng cách duy trì mức độ rủi ro tín dụng trong phạm vi chấp nhận được.
Như vậy, quản lý RRTD trong hoạt động cho vay của NHTM là nhằm tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở giữ mức độ RRTD hoặc thất thoát tín dụng ở mức ngân
hàng có thể chấp nhận, được kiểm soát và trong phạm vi nguồn lực tài chính của ngân hàng. Quản trị rủi ro tín dụng phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả của hoạt động tín dụng và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM ngay cả trong những điều kiện thị trư ng đầy ngừng biến động, nguy cơ rủi ro không ngừng gia tăng.
Quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng là thông qua một hệ thống các công cụ tác động tới rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng, nhằm tìm ra nguyên nhân và xử lý các tình huống xảy ra RRTD với mục tiêu giảm thiểu các tổn thất do rủi ro gây ra. Nội dung quản lý này được thể hiện một cách cụ thể, rõ ràng cả về kỹ thuật, kỹ năng, phương pháp ngăn ngừa, hạn chế rủi ro và xử lý RRTD. Trên cơ sở nguyên tắc chuẩn mực quản lý rủi ro quốc tế, hệ thống quản lý rủi ro tín dụng bao gồm các vấn đề cơ bản như: Cơ sở pháp lý cho hoạt động cấp tín dụng, nguồn nhân lực cho quản lý rủi ro, xây dựng hệ thống phân khúc thị trư ng, phân khúc khách hàng, thẩm định và phê duyệt hồ sơ tín dụng, cấu trúc hệ thống các bộ phận tham gia vào việc tìm kiếm khách hàng, xem xét và quyết định tín dụng, các quy trình cụ thể điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng, vấn đề cảnh báo sớm, cơ cấu khoản nợ và thu hồi nợ.
* Chủ thể quản lý rủi ro tín dụng: Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại.
* Công cụ quản lý rủi ro tín dụng:
Thứ nhất, chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng cung cấp cho cán bộ tín dụng những chi tiết để thực hiện các quyết định tín dụng và định hướng danh mục đầu tư tín dụng của Ngân hàng. Chính sách tín dụng tốt sẽ nâng cao chất lượng khoản vay.
Thứ hai, giới hạn cấp tín dụng: Để hạn chế rủi ro, m i Ngân hàng đều quy định hạn mức cấp tín dụng tối đa cho từng cấp quản trị (mức phán quyết). Mức phán quyết có thể được quy định cho từng cấp độ kinh doanh Ngân hàng như chi nhánh, phòng giao dịch, tùy theo quy mô hoạt động, năng lực làm việc của từng nơi, theo loại sản phẩm tín dụng, tính chất có hay không có tài sản bảo đảm của khoản vay. Ngoài ra Ngân hàng cần xác định mức giới hạn tín dụng đối với từng khách
hàng riêng biệt.
Thứ ba, định giá khoản vay: Định giá cho vay là một công cụ vô cùng quan trọng trong tiến trình quản lý rủi ro tín dụng khi quyết định cho vay đã được đưa ra. Lãi suất chính là giá cả của khoản tín dụng. Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo để bù đắp cho chi phí đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần bù rủi ro của khoản vay, khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao thì lãi suất cho vay cũng được nâng lên. Lãi suất cũng phụ thuộc vào giá trị của khoản vay và giá trị thanh toán khoản vay của tài sản đảm bảo.
Việc áp dụng toàn bộ mức rủi ro đối với khách hàng có chất lượng tín dụng thấp không phải là biện pháp hay vì buộc khách hàng phải thực hiện một chiến lược kinh doanh mạo hiểm hơn với ít cơ hội thành công để thanh toán một khoản lãi vay cao và làm mất đi cơ hội tiếp cận vốn vay ngân hàng đối với các khách hàng có mức độ rủi ro thấp hơn. Ngân hàng quy định lãi suất cao để bù rủi ro cho mình lại cũng khiến cho mức độ rủi ro tín dụng tăng lên. Vì vậy, tùy thuộc vào chính sách của mình, ngân hàng có thể xác định lãi suất với phần bù rủi ro thấp đi kèm với chế độ sàng lọc khách hàng chặt chẽ để cấp tín dụng.
Thứ tư, xếp hạng tín dụng: Các Ngân hàng cần xếp hạng tín dụng cho khách hàng, đánh giá lại khoản vay và tài sản thế chấp để từ đó có mức phân bổ dự phòng, điều chỉnh lại giới hạn cấp tín dụng cho khách hàng phù hợp hoặc thực hiện những biện pháp cần thiết nhằm thu hồi nợ trước hạn nếu phát hiện khoản vay, tài sản thế chấp có dấu hiệu bất thư ng ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ vay.
Thứ năm, lập quỹ dự phòng rủi ro: Quỹ dự phòng rủi ro tạo ra nguồn bù đắp tổn thất cho Ngân hàng khi có rủi ro xảy ra. Vì vậy, lập quỹ dự phòng rủi ro được coi là một trong những biện pháp quan trọng để tăng khả năng chống đỡ rủi ro của Ngân hàng, giúp Ngân hàng có thể ổn định và phát triển được hoạt động kinh doanh trong trư ng hợp có rủi ro xảy ra.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Uỷ ban Basel II đã đưa ra các phương pháp và nguyên tắc liên quan đến quản
lý rủi ro tín dụng, kiểm soát nợ xấu, bao gồm các nội dung như sau:
- Xây dựng môi trư ng tín dụng phù hợp: Đòi hỏi xem xét, đánh giá RRTD phải là chiến lược thư ng xuyên trong hoạt động ngân hàng (cụ thể mức độ chấp nhận rủi ro, tỷ lệ quá hạn, ...), từ đó, có thể phát triển các chính sách để phát hiện, theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, đối với từng khoản cấp tín dụng cụ thể và tăng tầm soát rủi ro của các danh mục đầu tư.
- Đảm bảo cho quá trình quản lý và theo dõi tín dụng phù hợp: Căn cứ vào quy mô của từng ngân hàng để thiết lập hệ thống quản lý phù hợp, nhanh chóng nắm bắt các thông tin từ phía khách hàng doanh nghiệp, bao gồm: tình hình hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính, mức độ thực hiện các cam kết... nhằm mục đích kịp th i phát hiện những dấu hiệu bất thư ng, kiểm soát hiệu quả các khoản vay có vấn đề. Hơn nữa, các ngân hàng cũng cần có các biện pháp quản lý và khắc phục những khoản nợ xấu. Do đó, chính sách QLRRTD của ngân hàng phải chỉ rõ cách thức quản trị các khoản tín dụng có vấn đề.
- Thực hiện việc cấp tín dụng lành mạnh: Các NHTM cần xác định rõ ràng các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh (như xác định thị trư ng mục tiêu, đối tượng khách hàng doanh nghiệp tiềm năng, điều kiện cấp tín dụng...) để thiết lập các hạn mức tín dụng thích hợp cho m i loại khách hàng trên cơ sở các thông tin định lượng, định tính và kết qua xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng doanh nghiệp. Đồng th i, các NHTM cần đưa ra quy trình rõ ràng, cụ thể trong đề xuất tín dụng, phê duyệt và sửa đổi tín dụng, phân chia chức năng rạch ròi giữa các bộ phận có liên quan đến công tác quản lý tín dụng. Việc cấp tín dụng cũng cần phải tuân thủ nguyên tắc cẩn trọng trên cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên.
Đồng th i, Uỷ ban Basel cũng khuyến khích các NHTM tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, tạo cơ sở cho việc phân loại, đánh giá khách hàng doanh nghiệp dựa trên nhiều tiêu chí khách nhau; phân biệt các mức độ rủi ro tín dụng ứng với m i đối tượng khách hàng để có biện pháp quản lý phù hợp để giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.