- Rủi ro luôn gắn liền với hoạt động tín dụng: Kinh doanh ngân hàng thực chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng. Ngay từ lúc ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng đã có một mức rủi ro được xác lập do thông tin không cân xứng giữa người đi vay và người cho vay. Điều này làm cho ngân hàng không thể nắm bắt đầy đủ thông tin và dấu hiệu của các rủi ro một cách đầy đủ, điều này là tăng rủi ro tiềm ẩn với ngân hàng.
* Đặc điểm của quản lý rủi ro tín dụng
- Quản lý rủi ro tín dụng là việc quản lý chủ động, tích cực hơn là xử lý sự cố, thụ động các rủi ro trong quá trình cho vay.
- Phát hiện những rủi ro tiềm ẩn chưa được nhận diện thành những rủi ro có thể nhận diện, song hành với việc phân tích và có giải pháp hợp lý để đối phó với những rủi ro ấy.
- Quản lý rủi ro tín dụng là quá trình xác định trước các rủi ro có thể xảy ra trong tổ chức, phân tích và có giải pháp phù hợp nhằm mục tiêu tăng cơ hội thành công và giảm thiệt hại.
- Là quy trình dành cho mọi tổ chức và công việc trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
- Quản lý rủi ro tín dụng cần được thực hiện theo các quy trình có thứ tự, dùng các công cụ phù hợp và có giải pháp hiệu quả.
1.1.2.2. Vai trò của quản lý rủi ro tín dụng đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Rủi ro tín dụng luôn gây tổn thất cho các NHTM. Ở mức độ thấp, rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận, thậm chí còn làm giảm nguồn vốn tự có của các ngân hàng. Còn nếu rủi ro tín dụng không được kiểm soát tốt làm cho tỷ lệ các khoản cho vay mất vốn tăng lên qụá cao, các NHTM sẽ phải đối mặt với nguy cơ phá sản. Lịch sử kinh tế thế giới đã chứng minh, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất gây nên cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 là tỷ lệ nợ quá hạn tại các NHTM tăng cao. Ngay trước khủng hoảng, tỷ lệ nợ quá hạn tại các NHTM Thái Lan là 13%, Indonesia là 13%, Phillipines là 14%, Malaysia là 10%. RRTD lại một lần nữa gây nên cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầụ năm 2007 - 2009, với điểm xuất phát là sự sụp đổ của hệ thống tài chính Mỹ. Theo công bố của cục dự trữ liên
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Thái Nguyên - 1
- Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Thái Nguyên - 2
- Nguyên Nhân Dẫn Đến Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại
- Công Cụ Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Kinh Nghiệm Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Khái Quát Về Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển Agribank - Chi Nhánh Tỉnh Thái Nguyên
Xem toàn bộ 152 trang tài liệu này.
bang Mỹ, trong năm 2008 có tổng cộng 26 ngân hàng phá sản, thế nhưng năm 2009 con số này đã lên tới 140 với hàng loạt vụ phá sản của các định chế tài chính có lịch sử lâụ đời và tiềm lực tài chính bậc nhất thế giới.
Như vậy có thể nhận thấy RRTD ngày càng đe dọa sự tồn tại và phát triển của các NHTM. Riêng đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước đang trong quá trình chuyển đổi, môi trường kinh doanh không ổn định, thị trường tài chính kém phát triển, mức độ minh bạch thông tin thấp... làm gia tăng mức độ rủi ro đối với hoạt động ngân hàng thì nhu cầu phải QLRRTD một cách hiệu quả càng trở nên cấp thiết và đang là hoạt động trung tâm của mỗi Ngân hàng. Vai trò của QLRRTD đối với Ngân hàng có thể được trình bày như sau:
Thứ nhất, QLRRTD được thực hiện tốt sẽ góp phần làm giảm tổn thất, giảm thiểu chi phí hoạt động và gia tăng lợi nhuận cho chính Ngân hàng. Chi phí cho việc trích lập dự phòng và xử lý các khoản rủi ro tín dụng là rất lớn, vì vậy việc trích lập dự phòng rủi ro sẽ ảnh hưởng rất lớn đến Ngân hàng. Do đó, nếu công tác QLRRTD có hiệu quả, các khoản tín dụng trên danh mục của Ngân hàng có chất lượng tốt sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng giảm chi phí và gia tăng lợi nhuận.
Thứ hai, QLRRTD tốt góp phần tạo điều kiện làm lành mạnh tình hình tài chính, ngăn ngừa nguy cơ vỡ nợ của Ngân hàng, cũng như gia tăng năng lực tài chính của Ngân hàng trong quá trình thực hiện các cam kết về việc gia nhập WTO trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Thứ ba, QLRRTD tốt góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội của đất nước, khu vực. Thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế ổn định và bền vững, tạo lòng tin vững chắc từ công chúng và khách hàng của Ngân hàng cũng như tạo niềm tin và gia tăng mức độ tín nhiệm đối với cộng đồng, các tổ chức quốc tế đối với việc quản lý hoạt động Ngân hàng tại Việt Nam.
1.1.3. Nội dung quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Nhận diện rủi ro
Đây được coi là bước đầu tiên trong quá trình QLRRTD tại ngân hàng. Nhận biết rủi ro được xét trên hai góc độ: Về phía ngân hàng, RRTD sẽ được phản ánh rõ nét qua quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, nợ quá hạn, nợ xấu và đề phòng rủi ro; về phía khách hàng: Khi khách hàng có những dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro, ngân hàng cần
nhận biết được khả năng xảy ra rủi ro để ứng phó kịp thời. Nhận diện rủi ro tín dụng trong cho vay là quá trình xác định liên tục và có hệ thống rủi ro bất định của ngân hàng. Bất kỳ khoản vay nào cũng có thể có vấn đề, việc sớm nhận diện các thông tin, dấu hiệu về nguồn rủi ro tín dụng, hiểm họa và nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ giúp ngân hàng có thể nhận biết và có giải pháp xử lý sớm các vấn đề một cách hiệu quả. Các nội dung chủ yếu trong giai đoạn nhận biết rủi ro gồm có:
- Phân tích danh mục tín dụng của ngân hàng: để nhận biết những nguy cơ rủi ro phát sinh từ quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, ngành nghề, loại tiền...
- Phân tích đánh giá khách hàng: nhằm phát hiện những nguy cơ rủi ro trong từng khách hàng và từng khoản nợ cụ thể. Phân tích đánh giá khách hàng là cả một quá trình từ khi tiếp xúc với khách hàng, tiếp nhận các thông tin từ phía khách hàng, tiến hành phân tích, thẩm định khách hàng trước, trong và sau khi cho vay.
CBTD có thể nhận ra những rủi ro tín dụng từ những dấu hiệu sau:
• Từ báo cáo tài chính
- Ngân hàng không nhận được báo cáo tài chính từ người vay một cách kịp thời.
- Khả năng thanh khoản giảm
- Những thay đổi nhanh chóng của tài sản cố định
- Xuất hiện những khoản nợ mà công ty vay hoặc cho vay cán bộ hoặc cổ đông của công ty.
- Doanh số bán hàng giảm hoặc gia tăng một cách nhanh chóng
- Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và thu nhập ròng
- Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm.
- Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh
- Thay đổi về phạm vi kinh doanh.
- Mất những dây chuyền sản xuất chính, quyền phân phối sản phẩm hoặc nguồn cung cấp.
• Từ hoạt động kinh doanh.
- Mất một hay nhiều khách hàng có năng lực tài chính tốt hoặc nhà cung ứng chính.
- Thay đổi đáng kể về giá trị của đơn đặt hàng hoặc hợp đồng mà có thể làm mất năng lực sản xuất hiện hành.
• Những dấu hiệu liên quan đến công ty
- Báo cáo và quản lý tài chính kém cỏi
- Các chức năng điều hành và phân công xử lý công việc thể hiện một sự chắp vá.
- Mong muốn hoặc khăng khăng đòi “đánh bạc “ với kinh doanh có những rủi ro quá mức.
- Đặt giá bán hàng hóa và dịch vụ một cách không thực tế.
- Những thay đổi trong quản lý, quyền sở hữu hoặc những nhân vật chủ
chốt.
- Chậm trễ trong việc phản ứng lại với sự đi xuống của thị trường hoặc các
điều kiện kinh tế.
Tuy nhiên khi khách hàng có một trong những dấu hiệu trên thì không đáng kể, nhưng khi một số dấu hiệu xảy ra đồng thời thì CBTD cần xem xét, đánh giá kỹ để có thể hạn chế và giảm thiểu các tác động của RRTD gây nên.
1.1.3.2. Đo lường rủi ro
Các ngân hàng có thể đo lường rủi ro khoản vay thông qua mô hình 6C, các mô hình cho điểm tín dụng, mô hình ước lượng tổn thất dự kiến (mô hình Var), mô hình điểm số Z và mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ theo Basel II. Nếu các mô hình cho điểm tín dụng đánh giá rủi ro của khách hàng trên cơ sở cho điểm doanh nghiệp đó, xem doanh nghiệp đang ở các mức rủi ro nào thì theo Basel II có thể tính được tổn thất dự kiến. Như vậy, nếu mỗi món vay được xem là một phép thử và có số liệu đầy đủ, chúng ta có thể xác định một cách tương đối chính xác xác suất rủi ro của từng loại tài sản của ngân hàng trong từng thời kì, từng loại hình tín dụng, từng lĩnh vực đầu tư.
+ Mô hình 6C
Đối với mỗi khoản vay, câu hỏi đầu tiên của ngân hàng là liệu khách hàng có thiên chí và khả thanh toán toán khi khoản vay đến hạn hay không? Điều này liên quan đến việc nghiên cứu chi tiết “6 khía cạnh - 6C” của khách hàng bao gồm:
- Tư cách người vay (Character): CBTD phải chắc chắn rằng người vay có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí nghiêm chỉnh ừả nợ khi đến hạn.
- Năng lực của người vay (Capacity): Người đi vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, người vay có phải là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp.
- Thu nhập của người vay (Cashflow): xác định nguồn trả nợ của khách hàng.
- Bảo đảm tiền vay (Collateral): là nguồn thu thứ hai có thể dùng để trả nợ vay cho ngân hàng.
- Các điều kiện (Conditions): ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng từng thời kỳ.
- Kiểm soát (Control): đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của luật pháp, quy chế hoạt động, khả năng khách hàng đáp ứng các tiêu chuẩn của ngân hàng.
Việc sử dụng mô hình này tương đối đơn giản, song hạn chế của mô hình này là nó phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập, khả năng dự báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá của CBTD.
+ Mô hình điểm số Z của Altman Theo mô hình này chúng ta có thể thấy cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp, đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại RRTD đối với người vay. Cụ thể:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó:
X1 = Tỷ số Vốn lưu động ròng/ Tổng tài sản X2 = Tỷ số Lợi nhuận giữ lại/ Tổng tài sản
X3 = Tỷ số Lợi nhuận trước thuế và lãi/ Tổng tài sản.
X4 = Tỷ số Trị giá cổ phiếu / Giá trị ghi sổ của nợ dài hạn X5 = Tỷ số Doanh thu / Tổng tài sản.
Các hệ số biểu hiện tầm quan trọng của các chỉ số trọng việc xác định xuất vỡ nợ của người vay trong quá khứ.
Theo mô hình này, bất cứ doanh nghiệp nào có điểm số Z thấp hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ RR cao.
Thực tế mô hình này còn có những hạn chế nhất định như: chỉ phân loại khách hàng thành hai nhóm, các biến số X không phải là bất biến, mô hình không có đề cập tới một số nhân tố quan trọng như danh tiếng khách hàng, quan hệ khách hàng với ngân hàng, chu kì kinh tế.
+ Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng Đó là mô hình cho điểm khách hàng theo những tiêu chí nhất định. Qua các hạng mục cho điểm, Ngân hàng sẽ chấm điểm khách hàng từ đó ra quyết định tín dụng. Mô hình này đã loại bỏ được phán xét chủ quan trong quá trình cho vay, giảm đáng kể thời gian tín dụng của Ngân hàng. Tuy nhiên nó có nhược điểm là cứng nhắc không điều chỉnh nhanh để thích ứng thay đổi của nền kinh tế.
Còn đối với RRTD tổng thể, ngân hàng có thể đo lường qua việc tính toán các chỉ tiêu như quy mô dư nợ, cơ cấu dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu, hệ số RRTD, dự phòng rủi ro... Đặc biệt, hai chỉ tiêu: tỷ lệ nợ quá hạn và nợ xấu sẽ phản ánh rõ nét rủi ro của ngân hàng.
1.1.3.3. Kiểm soát rủi ro
Kiểm soát RRTD nhằm mục tiêu phòng chống và kiểm soát các rủi ro có thể phát sinh trong hoạt động ngân hàng, đảm bảo toàn bộ các bộ phận và cá nhân trong ngân hàng tuân thủ các quy định của pháp luật, thực hiện các chiến lược, chính sách đảm bảo mục tiêu an toàn và hiệu quả trong hoạt động ngân hàng. Kiểm soát RRTD bao gồm kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay.
- Kiểm soát trước khi cho vay bao gồm: kiểm soát quá trình thiết lập chính sách, thủ tục, quy trình cho vay; kiểm tra quá trình lập hồ sơ vay vốn và thẩm định, kiểm tra tờ trình cho vay và các hồ sơ liên quan.
- Kiểm soát trong khi cho vay: kiểm soát một lần nữa hợp đồng tín dụng; kiểm tra quá trình giải ngân, điều tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích xin vay hay không, giám sát thường xuyên khoản vay.
- Kiểm soát sau khi cho vay: kiểm soát việc đôn đốc thu hồi nợ, kiểm soát tín dụng nội bộ độc lập, đánh giá lại chính sách tín dụng.
1.1.3.4. Tài trợ rủi ro
Tài trợ RRTD là việc ngân hàng dùng các nguồn tài chính trong và ngoài ngân hàng bù đắp tổn thất các khoản cho vay khi rủi ro xảy ra. Nợ rủi ro sau khi được xử lý sẽ được thu hồi hoặc được chuyển qua theo dõi ngoại bảng. Các nguồn tài trợ RRTD, gồm có:
- Nguồn từ ngân hàng
+ Từ quỹ dự phòng rủi ro đã trích (bao gồm dự phòng chung và dự phòng cụ thể)
+ Trích thẳng trực tiếp vào chi phí hoặc lợi nhuận của ngân hàng.
- Nguồn từ bên ngoài ngân hàng
+ Phương án thu hồi nợ xấu
+ Từ thanh lý doanh nghiệp.
+ Từ bán nợ.
+ Từ nguồn đền bù của nhà kinh doanh rủi ro, bảo hiểm để bù đắp tổn thất.
1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.4.1. Các yếu tố khách quan
+ Yếu tố môi trường kinh tế - xã hội
Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng cũng như doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường này. Sự biến động của nền kinh tế theo chiều hướng tốt hay xấu sẽ làm cho hiệu quả hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp biến động theo. Đặc biệt, trong điều kiện quốc tế hóa mạnh mẽ như hiện nay, hoạt động của các ngân hàng và doanh nghiệp không chỉ chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế trong nước mà cả môi trường kinh tế quốc tế. Những tác động do môi trường kinh tế gây ra có thể là trực tiếp đối với ngân hàng hoặc tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng.
+ Yếu tố môi trường tự nhiên
Nói chung môi trường tự nhiên không tác động trực tiếp tới hoạt động tín dụng của ngân hàng mà vai trò của nó thể hiện qua sự tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, đặc biệt là các khách hàng mà hoạt động của chúng phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nông nghiệp, ngư nghiệp. Điều kiện tự nhiên diễn biến thuận lợi hay bất lợi sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng.
+ Yếu tố môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý không chặt chẽ, nhiều khe hở và bất cập sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp yếu kém làm ăn bất chính, lừa đảo lẫn nhau và lừa đảo ngân hàng. Môi trường pháp lý không chặt chẽ và thiếu sự ổn định cũng khiến các nhà đầu tư trung thực e dè, không dám mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, do đó hạn chế nhu cầu về vốn tín dụng ngân hàng.
+ Về phía khách hàng
- Năng lực kinh doanh của khách hàng: Do năng lực kinh doanh yếu kém, tính toán các phương án kinh doanh, hoạch định ngân quỹ không chính xác, không dự tính hết các khoản chi tiêu dẫn đến xác định sai thu nhập trả nợ ngân hàng. Việc sử dụng vốn sai mục đích, không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng phương án, mục đích xin vay, hiệu quả kinh doanh không được phát huy triệt để nên khi đến hạn không thể trả nợ được cho ngân hàng. Khách hàng vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng dưới một danh nghĩa hay nhiều thực thể khác nhau nên dẫn tới thiếu sự phân tích tổng thể, khó theo dõi được dòng tiền dẫn tới việc sử dụng vốn vay một cách chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền.
- Uy tín của khách hàng vay vốn: Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực, làm giảm uy tín khách hàng. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống RRTD.
Bên cạnh đó việc cố tình chây ỳ, không hoàn trả nợ, lừa đảo ngân hàng khi vay vốn của các khách hàng cũng dẫn tới một phần rủi ro trong hoạt động tín dụng.
1.1.4.2. Các yếu tố chủ quan
+ Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là hệ thống các chủ trương, định hướng, quy định chi phối hoạt động tín dụng của ngân hàng đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn tài trợ cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và các cá nhân; đồng thời thiết lập môi trường nhằm giảm bớt RRTD trong hoạt động tín dụng.
Một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho danh mục tín dụng của ngân hàng thương mại an toàn là việc hình thành một “chính sách tín dụng an toàn và hiệu quả”. Chính sách tín dụng cung cấp cho CBTD và nhà quản lý một khung chỉ