Công Cụ Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng Thương Mại


dẫn của ngân hàng. Nội dung của chính sách tín dụng bao gồm của các yếu tố như hạn mức cho vay đối với khách hàng, kỳ hạn cho vay, lãi suất, mức lệ phí, các hình thức cho vay được thực hiện, tài sản thế chấp, khả năng thanh toán nợ của khách hàng, hướng giải quyết phần tín dụng quá hạn hay các khoản vay có vấn đề.... Tùy theo đặc điểm cụ thể của từng ngân hàng mà nhà quản lý có thể bổ sung thêm một số yếu tố phù hợp. Thực tế đã chứng minh rằng ngân hàng nào xây dựng được một chính sách tín dụng hợp lý, chất lượng tín dụng tại ngân hàng đó thường cao hơn.

+ Quy trình tín dụng

Khi quyết định cho vay, ngân hàng phải tính đến sự an toàn của vốn vay, khả năng hoàn trả vốn vay, khả năng sinh lợi của vốn tín dụng. Muốn vậy, phải thực hiện tốt quy trình cho vay, điều này sẽ hạn chế được điều bất lợi xảy ra và đảm bảo được độ an toàn của đồng vốn. Một quy trình tín dụng có hiệu quả là khi có sự đánh giá chính xác và sát sao tới đối tượng được cấp tín dụng, có các biện pháp kịp thời khi RRTD xuất hiện, có sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng khách hàng và phòng kiểm tra giám sát.

Các ngân hàng thương mại hiện chưa phát huy đúng tác dụng của hệ thống kiểm soát. Do đó, sau khi cho vay, các ngân hàng thương mại yên tâm với tài sản bảo đảm và thiếu sự giám sát chặt chẽ đối với các khoản cho vay, trong khi tài sản bảo đảm còn bị đánh giá sai lệch về giá trị. Một ảnh hưởng nữa làm trầm trọng thêm mức độ rủi ro của các khoản tín dụng là những ngân hàng thương mại trong quá trình cạnh tranh và tìm kiếm lợi nhuận đã bỏ qua quy trình tín dụng. Họ hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, không thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc quản lý kinh tế tài chính, quy chế bảo đảm tiền vay...Nguy cơ đe dọa hoạt động kinh doanh bình thường của ngân hàng cũng sẽ gia tăng nếu như công tác trích lập dự phòng RRTD không được thực hiện nghiêm túc, chất lượng phân loại nợ và xếp hạng tín dụng không đảm bảo.

+ Đội ngũ cán bộ Ngân hàng

Nhân sự là nhân tố trung tâm trong mọi hoạt động và trong hoạt động tín dụng cũng không phải là ngoại lệ. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển, hệ thống ngân hàng ngày càng hiện đại đòi hỏi nhân sự phải có trình độ, năng lực, khả năng tư duy, nhạy cảm và có đạo đức nghề nghiệp và đây cũng là những nhân tố quyết định đến hiệu quả quản lý rủi ro RRTD. Nếu bố trí không hợp lý như một cán bộ


phải theo dõi quá nhiều khách hàng, quy mô và tính phức tạp của khoản vay vượt quá khả năng quản lý của CBTD, chất lượng tín dụng sẽ giảm sút, nguy cơ RRTD là tất yếu. Đối với những dự án công nghệ cao, khả năng tiếp cận thông tin và thực tiễn của các CBTD hạn chế cũng gây ra chất lượng tín dụng thấp, mức độ rủi ro cao.

+ Công tác tổ chức của Ngân hàng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 152 trang tài liệu này.

Bộ máy tổ chức của Ngân hàng nếu không được sắp xếp, tổ chức một cách khoa học, các phòng ban không có sự kết hợp nhuần nhuyễn để đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng cũng như kịp thời xử lý những rủi ro phát sinh sẽ dẫn tới những hậu quả khó lường trong công tác QLRRTD.

Bên cạnh đó, công tác thu thập và xử lý thông tin chưa được chú trọng và tổ chức bài bản có hệ thống. Do vậy đã xảy ra tình trạng ngân hàng cho vay vốn nhưng lại thiếu những thông tin chính xác về hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng và thiện chí trả nợ của khách hàng. Từ đó tạo điều kiện để hoạt động của ngân hàng thương mại an toàn - bền vững - hiệu quả.

Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Thái Nguyên - 5

Công nghệ đó là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động của một ngân hàng hiện đại. Trong điều kiện công nghệ thông tin toàn cầu phát triển như vũ bão, thì các phương pháp thu thập thông tin truyền thống đã quá lạc hậu đối với ngân hàng. Rủi ro mất vốn cũng có thể xảy ra từ việc ngân hàng thu thập thông tin bằng phương pháp truyền thống. Do lĩnh vực kinh doanh của khách hàng lại rất đa dạng phần lớn là ngoài chuyên môn của CBTD. Nếu công nghệ ngân hàng lạc hậu sẽ là cản trở rất lớn cho việc thu thập và xử lý thông tin của ngân hàng.

1.1.5. Công cụ quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.1.5.1. Chính sách tín dụng

Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho CBTD và nhân viên ngân hàng tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo ra sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.

Chính sách tín dụng của một ngân hàng được xây dựng dựa trên nghiên cứu các yếu tố:

- Nhu cầu tín dụng của khách hàng: Chính sách tín dụng là chính sách phục vụ nhu cầu tín dụng của khách hàng. Do đó, nhu cầu của khách với các đặc tính


khác nhau (ngành nghề kinh doanh, qui mô kinh doanh...) sẽ quyết định nội dung và sự thành công của chính sách tín dụng.

- Khả năng sinh lời và rủi ro tiềm tàng của khách hàng sẽ quyết định tính an toàn và sinh lời của hoạt động tín dụng. Do đó, chính sách tín dụng của ngân hàng được xây dựng dựa trên những phán đoán tương lai cũng như những diễn biến trong quá khứ về RRTD.

- Các chính sách của Chính Phủ và NHNN như chính sách ưu đãi, chính sách tỷ giá, chính sách phát triển hệ thống tài chính... ảnh hưởng đến chính sách tín dụng.

- Qui mô, kết cấu, tính ổn định của các khoản tiền gửi, khả năng vay mượn của khách hàng, qui mô vốn chủ sở hữu... quyết định việc ngân hàng sẽ theo đuổi chính sách tín dụng mạo hiểm hay thận trọng. Nguồn tiền gửi lớn và ổn định sẽ cho phép khách hàng gia tăng các khoản tín dụng trung và dài hạn. Qui mô vốn chủ sở hữu lớn, khả năng vay mượn tốt thì ngân hàng sẽ có thể tham gia tài trợ các dự án mạo hiểm hơn với kì vọng thu được lợi tức đền bù lớn hơn.

1.1.5.2. Giới hạn cấp tín dụng

Để hạn chế RRTD và tổn thất cho ngân hàng khi RRTD xảy ra, các ngân hàng thường qui định hạn mức cấp tín dụng tối đa cho từng cấp quản trị như chi nhánh, phòng giao dịch tuỳ theo qui mô hoạt động và năng lực làm việc của từng bộ phận. Đối với khách hàng, giới hạn tín dụng tối đa được xác định phù hợp với các qui định của luật và đánh giá của ngân hàng về ngành nghề kinh doanh của khách hàng, về giá trị tài sản đảm bảo tiền vay, uy tín, quan hệ của khách hàng với ngân hàng... Qui mô và giới hạn tín dụng tối đa phải đảm bảo kết hợp tính sinh lời với mức độ rủi ro có thể chấp nhận được của mỗi khoản cho vay.

1.1.5.3. Định giá khoản vay

Tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM và lãi suất là thu nhập chủ yếu từ hoạt động tín dụng. Có thể nói lãi suất là giá cả của khoản vay và nó phụ thuộc vào quan hệ cung cầu tín dụng trên thị trường vào thời điểm vay, vào mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng. Lãi suất tín dụng phải được xác định ở mức đảm bảo chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, lợi nhuận bù đắp rủi ro. Tuy nhiên, nếu định lãi suất quá cao sẽ khiến khách hàng buộc phải thực hiện một chiến lược kinh doanh mạo hiểm hơn và ít cơ hội thành công hơn để thanh toán khoản lãi vay, đồng thời làm mất đi cơ hội tiếp cận vốn vay ngân hàng đối với


các khách hàng có mức độ rủi ro thấp hơn. Việc xác định được mức lãi suất phù hợp và linh hoạt sẽ giúp ngân hàng tránh được những "lựa chọn bất lợi", hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.

1.1.5.4. Đảm bảo tiền vay

Có rất nhiều nguyên nhân làm cho khách hàng không trả nợ cho ngân hàng nên để đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng, ngân hàng thường yêu cầu người vay phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng. Khi khách hàng không trả nợ được cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ dùng tài sản đó như một nguồn trả nợ thứ cấp cho khoản vay. Đối với những khách hàng truyền thống, có uy tín, ngân hàng có thể cho vay không cần kí hợp đồng bảo đảm. Trong trường hợp độ an toàn của người vay không chắc chắn, ngân hàng đòi phải đảm bảo, có thể là giấy tờ có giá, hàng hóa trong kho, nhà cửa, thiết bị hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Chính sách về tài sản đảm bảo của ngân hàng qui định các trường hợp tài trợ cần tài sản đảm bảo, các loại đảm bảo cho mỗi loại hình tín dụng, danh mục các loại tài sản đảm bảo được ngân hàng chấp nhận, tỷ lệ phần trăm cho vay trên tài sản đảm bảo, đánh giá và quản lý tài sản đảm bảo... ngân hàng chỉ chấp nhận các tài sản có khả năng bán được làm tài sản bảo đảm và thông thường cũng chỉ cho vay với một giới hạn thấp hơn giá trị thị trường của đảm bảo, tỷ lệ là bao nhiêu phụ thuộc vào khả năng bán và khả năng thay đổi giá trị thị trường của vật bảo đảm.

1.1.5.5. Đa dạng hoá danh mục đầu tư

Đối với hoạt động tín dụng, đó là việc cần phải đa dạng hoá danh mục đầu tư. Việc đa dạng hoá danh mục cho vay của ngân hàng sẽ làm giảm tối đa rủi ro do các khoản vay có mức độ rủi ro khác nhau tùy theo năng lực, qui mô, uy tín của khách hàng, sự nhạy cảm với những thay đổi vĩ mô... Nhìn chung, các doanh nghiệp có qui mô nhỏ thường năng động, uyển chuyển, ít bị tổn thương và dễ khắc phục hậu quả hơn các doanh nghiệp qui mô lớn khi gặp rủi ro. Có những ngành hàng lại đặc biệt nhạy cảm với những thay đổi về chính sách, tỷ giá... hơn những ngành hàng khác. Các khoản cho vay dài hạn có nguy cơ rủi ro cao hơn cho vay ngắn hạn. Như vậy, việc đa dạng hoá cần được thực hiện đối với khu vực địa lý, thành phần kinh tế, thời hạn vay... và phải phù hợp với cơ cấu nguồn của ngân hàng.


1.2. Cơ sở thực tiễn về quản lý rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.2.1. Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của một số Ngân hàng trên thế giới

1.2.1.1. Kinh nghiệm quản lỷ rủi ro tín dụng của các Ngân hàng KDB tại Hàn Quốc

Ngân hàng KDB tại Hàn Quốc là một ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước được thành lập năm 1954 theo một đạo luật riêng với tên gọi ban đầu là Ngân hàng Tái thiết Hàn Quốc (Korea Reconstruction Bank). Trải qua hơn một nửa thế kỷ hoạt động, KDB đã rất thành công trong việc hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp cũng như nền kinh tế của Hàn Quốc và hiện là ngân hàng hàng đầu của Hàn Quốc trong lĩnh vực tài trợ phát triển vùng và tài trợ dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. KDB còn được mệnh danh là “Ngân hàng tiên phong của Châu Á” và được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá rất cao (xếp hạng AA- của Fitch, hạng A của S&P, hạng Aa3 của Moody’s, hạng AAA của Công ty xếp hạng Hàn Quốc năm 2012).

KDB coi QLRR là chìa khoá cơ bản tạo nên thành công của mình, do đó rất chú trọng công tác QLRR. Những nét nổi bật trong QLRR của KDB là:

Thứ nhất: KDB đã thiết lập bộ máy QLRR hoàn chỉnh tại Tập đoàn cũng như tại các đơn vị trực thuộc với các thành tố chủ yếu gồm:

-Ban QLRR (Risk Management Department): được thành lập ở Tập đoàn cũng như ở các đơn vị trực thuộc, có trách nhiệm (i) thiết lập các giới hạn tổng thể về rủi ro cho cả Tập đoàn, (ii) xác định giới hạn rủi ro từng loại của Tập đoàn (bao gồm cả RRTD) cũng như giới hạn rủi ro của các đơn vị trực thuộc, (iii) thiết lập giới hạn RRTD theo ngành và quản lý RRTD của từng ngành cụ thể.

-Quan chức QLRR (Chief Risk Officer - CRO): Tập đoàn và mỗi đơn vị trực thuộc đều có các CRO, làm chức năng tham mưu về chiến lược và chính sách QLRR của Tập đoàn và các đơn vị trực thuộc.

-Hội đồng QLRR (Risk Management Council): được thành lập ở cấp Tập đoàn cũng như đơn vị trực thuộc, trong đó Hội đồng QLRR ở cấp Tập đoàn gồm các thành viên là (i) CRO của Tập đoàn, (ii) các CRO của các đơn vị trực thuộc và (iii) Giám đốc Ban QLRR của Tập đoàn. Hội đồng QLRR có nhiệm vụ kiểm tra các nội dung cụ thể liên quan đến RRTD, bao gồm cả đo lường và quản lý RRTD cũng như xây dựng và áp dụng các chính sách về QLRR.


- Uỷ ban QLRR (Risk Management Committee): được thành lập ở Tập đoàn KDB cũng như ở các đơn vị trực thuộc. Uỷ ban này chịu trách nhiệm (i) ban hành các chiến lược, chính sách về QLRR, (ii) thiết lập các giới hạn về RRTD cho Tập đoàn cũng như các đơn vị trực thuộc và (iii) thực hiện việc quản lý các vấn đề tổng thể liên quan đến rủi ro.

Thứ hai: Công tác quản lý RRTD của KDB được thực hiện qua nhiều tầng nấc khác nhau và được sàng lọc qua nhiều “hàng rào bảo vệ”. Ngân hàng KDB và Tập đoàn KDB đều xây dựng và vận hành chính sách và chiến lược riêng về để quản lý từng rủi ro cụ thể của Ngân hàng và của Tập đoàn, tuy nhiên các chính sách và chiến lược này đều phải phù hợp với với chiến lược kinh doanh của Ngân hàng cũng như phải phù hợp chính sách và chiến lược về QLRR tương ứng của Tập đoàn. Bộ máy QLRR ở cấp Tập đoàn không chỉ đảm nhiệm việc quản lý RRTD của Tập đoàn mà còn có nhiệm vụ kiểm soát công tác quản lý RRTD của Ngân hàng KDB và các đơn vị trực thuộc khác.

Thứ ba: KDB coi RRTD là rủi ro quan trọng nhất cần phải quản lý trong quá trình tổ chức triển khai các hoạt động kinh doanh và sử dụng nhiều phương pháp để quản lý RRTD. Tập đoàn KDB sử dụng mô hình stress-test để phân tích ảnh hưởng của các biến động tiêu cực từ thị trường đến danh mục tín dụng của Tập đoàn, từ đó xây dựng sẵn chiến lược quản lý RRTD. Còn Ngân hàng KDB sử dụng mô hình VAR (giá trị chịu rủi ro) với độ tin cậy 99,95% để đo lường RRTD và áp dụng các phương pháp đo lường khác nhau đối với khoản vay dành cho doanh nghiệp và khoản vay dành cho hộ gia đình. Các giới hạn về RRTD cho các doanh nghiệp, các ngành và các lĩnh vực được quản lý một cách rất chi tiết. Việc đánh giá RRTD theo ngành được thực hiện định kỳ 6 tháng một lần để tạo cơ sở cho việc xây dựng định hướng quản lý RRTD đối với các ngành cụ thể.

1.2.1.2. Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của NHTM tại Singapore

Để quản trị RRTD, ngân hàng Singapore đã có nhưng biện pháp sau:

Thứ nhất: Có sự phân định rõ ràng chức năng các ban trong cợ cấu tổ chức có liên quan đến quy trình tín dụng:

- Ban lãnh đạo: Đây là bộ phận có quyền cao nhất của Ngân hàng. Ban lãnh đạo phân bổ nguồn vốn chủ yếu, điều hành hoạt động của cả Ngân hàng trong đó có hoạt


động tín dụng. Ban lãnh đạo có trách nhiệm đề ra mức rủi ro chung của Ngân hàng; đề ra những mục tiêu chiến lược và các quy định chung áp dụng trong toàn Ngân hàng.

- Ban hoạch định chính sách tín dụng: Bao gồm các can bộ cao cấp, đứng đầu là trưởng ban. Ban này chịu trách nhiệm với ngân hàng trong việc duy trì một hình thức quản lý rủi ro tín dụng hoàn chỉnh, có hiệu quả; thạm gia vào việc lập kế hoạch đầu tư gián tiếp và dự đoán những tổn thất tín dụng; thiết lập các chính sách và tiêu chuẩn tín dụng phù hợp với luật, với quy định chung của Ngân hàng.

- Ban quản lý hạn nghạch tín dụng: Những người quản lý hạn nghạch tín dụng có nhiệm vụ điều hành và phát triển các kế hoạch kinh doanh của mình, xem xét và thông qua các khoản tín dụng, chịu trách nhiệm về chất lượng của khoản tín dụng đó.

- Ban đánh giá rủi ro kinh doanh: Nhân viên của ban này ít nhất phải có 10 năm làm việc về nghiệp vụ tín dụng và luân phiên nhau làm trong ban theo yêu cầu phát triển nghiệp vụ. Ban này thực hiện việc đánh giá tình hình kinh doanh của các đợn vị và cung cấp thông tin rủi ro trong đầu tư gián tiếp; đưa ra sự đánh giá độc lập về các hoạt động tín dụng, về các chính sách, sự thi hành và các thủ tục trong quản lý tín dụng; phối hợp với giám sát viên và kiểm toán viên độc lập.

Thứ hai: Thực hiện đánh giá độ tin cậy của người đi vay, việc đánh giá độ tin cậy của người đi vay tập trung vào những điểm sau:

- Năng lực quản lý của người vay.

- Năng lực tài chính của người vay.

- Thế chấp bảo đảm khoản vay.

- Lĩnh vực mà người vay hoạt động.

- Các điều khoản và điều kiện tín dụng.

Để đưa ra một quyết định đúng đắn là chấp thuận hay từ chối cho vay thì phải đánh giá thận trọng dựa vào các tiêu chí đề ra. Việc xem xét cho vay bao gồm quá trình kiểm tra hồ sơ, kiểm tra việc thanh toán đúng hạn của các khoản vay trước đó, kiểm tra và đánh giá tài sản thế chấp và đánh giá mức độ rủi ro của khoản vay.

Thứ ba: Có sự phân biệt giữa quyền cấp tín dụng và quyền phê duyệt

Quyền cấp tín dụng được ủy quyền cho cán bộ tín dụng dựa trên năng lực và tư cách, kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ học vấn và đào tạo nhân viên, chứ không dựa vào chức vụ của các nhân đó trong ngân hàng.


Quyền phê duyệt: Việc cấp tín dụng không do một người quyết định, mà phải được quyết định bởi 3 cán bộ. Những người chịu trách nhiệm phân định rõ việc thẩm định, tái thẩm định đối với một khoản vay.

1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho các Ngân hàng thương mại tại Việt Nam

1.2.2.1. Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thái Nguyên

Trong nhiều năm qua, cùng với sự phát triển của ngành ngân hàng Vietinbank có sự phát triển mạnh mẽ và khẳng định vị trí thương hiệu của mình trên thị trường. Năm 2016, với dư nợ tín dụng đạt 674.000 tỷ đồng, nhưng nợ xấu của hệ thống viettinbank chỉ có 0,85%, đây là con số nhỏ nhất về tỷ lệ nợ xấu trong khối ngân hàng TMCP nhà nước.

Có được kết quả như trên là nhờ VietinBank áp dụng hệ thống quản trị rủi ro bao gồm ba trụ cột: Rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động/tác nghiệp và rủi ro tín dụng. Hệ thống này giúp VietinBank hạn chế tối đa cũng như phòng ngừa tốt hơn với rủi ro tín dụng. Với các bộ phận kinh doanh và tác nghiệp, VietinBank đã tiến hành tái cấu trúc toàn diện hoạt động quản lý rủi ro theo mô hình Khối để củng cố và phát huy vai trò ba vòng kiểm soát độc lập theo thông lệ quốc tế chuẩn Basel II.

Đồng thời hệ thống Ngân hàng Công thương Việt nam xây dựng Quy trình kiểm tra giám sát quá trình vay vốn và trả nợ của khách hàng; quy trình quản lý và xử lý nợ có vấn đề rất cụ thể và chi tiết, quy định rõ chức năng nhiệm vụ quyền hạn của các cá nhân phòng ban liên quan trong quá trình cho vay, thu hồi nợ vay và xử lý nợ có vấn đề.

Bên cạnh đó để tăng trưởng tín dụng gắn liền với nâng cao chất tín dụng, tăng khả năng sinh lời, hệ thống ngân hàng công thương tổ chức tốt hoạt động:

+ Xác định và áp dụng giới hạn tín dụng khách hàng (là tổng mức dư nợ tối đa, dưới các hình thức cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và các hình thức tín dụng khác theo quy định của pháp luật).

+ Áp dụng hạng tín dụng khách hàng, hạng tín dụng khách hàng Hoạt động này nhằm quản lý rủi ro tín dụng hạn chế phát sinh nợ xấu trong tương lai. Đặc biệt, thực hiện chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), trong thời gian qua, VietinBank đã xem xét cơ cấu lại nợ (theo QĐ780 và Thông tư 09) cho khách hàng

Xem tất cả 152 trang.

Ngày đăng: 24/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí