Đối Với Một Số Bộ - Ngành Khác Có Liên Quan


+ Thử nghiệm bảo hiểm nông nghiệp theo chỉ số: Để khắc phục hạn chế của bảo hiểm theo truyền thống, trong những năm gần đây phương pháp bảo hiểm theo chỉ số được một số chuyên gia kinh tế nghiên cứu và áp dụng ở một số nước trên thế giới như: Ấn Độ, Mông Cổ,... Bảo hiểm theo chỉ số là bảo hiểm mà mức bồi thường được tính toán dựa trên chỉ số được xác định độc lập từ các yếu tố bên ngoài, khách quan nhằm phản ánh một cách chính xác nhất mức độ tổn thất của hộ nông dân. Chẳng hạn như thay vì phải tính toán sản lượng thiệt hại cây trồng để định ra mức đền bù người ta xây dựng mức đền bù dựa vào sự thay đổi thời tiết, vì thời tiết có ảnh hưởng đến năng suất cây trồng và việc xác định thay đổi của thời tiết khách quan, dễ dàng và đỡ tốn kém chi phí hơn. Phương pháp này sẽ giảm được rủi ro lựa chọn đối nghịch, chi phí quản lý thấp.

+ Thị trường tài chính thường liên quan đến tiết kiệm, cho vay và bảo hiểm và vì vậy phát triển thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán là một bước để thúc đẩy sự mua bán chuyển giao sản phẩm bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nông nghiệp nói riêng. Sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trong mấy năm gần đây cũng cho thấy về lâu dài hoạt động của thị trường này có thể tác động tốt đến việc chuyển giao rủi ro của các sản phẩm bảo hiểm và làm cho các sản phẩm này ngày càng có tính lỏng cao hơn. Thị trường tài chính cho phép sử dụng các chứng từ có giá, làm tăng tính thanh khoản cho các loại cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ bảo hiểm. Thông qua hoạt động của thị trường tài chính các công cụ bảo hiểm và tái bảo hiểm sẽ được mua bán, trao đổi làm chuyển đổi rủi ro cho người tham gia bảo hiểm và đầu tư vào các công cụ bảo hiểm. Hay nói cách khác, sự phát triển thị trường tài chính sẽ tạo điều kiện cho thị trường bảo hiểm phát triển và ngược lại sự phát triển của thị trường bảo hiểm sẽ làm tăng sự hấp dẫn của thị trường tài chính.

Chính phủ cần có các chính sách hấp dẫn thu hút các tổ chức bảo hiểm nước ngoài vào hoạt động nhằm tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh bảo hiểm, tạo điều kiện cho mọi cá nhân, tổ chức đều có cơ hội được bảo hiểm. Nhà nước cho phép thành lập các tổ chức bảo hiểm tín dụng chuyên nghiệp để giải quyết các nhu cầu bảo hiểm RRTD của các TCTD.

Việc giảm thiểu rủi ro trong cho vay nông nghiệp thông qua phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp là công việc đầy khó khăn, thử thách, liên quan đến


nhiều lĩnh vực khác nhau từ vấn đề nghiên cứu thử nghiệm đến vấn đề thay đổi hoặc ban hành các chính sách thích hợp. Nhưng nếu được thực hiện tốt chắc chắn sẽ đóng góp cho phát triển NNNT ở Việt Nam và giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tài chính.

3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước

Trong thời gian qua, NHNN đã có nhiều văn bản hướng dẫn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro.

Đến năm 2012, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư 02 và Quyết định số 780/QĐ-NHNN ngày 23/4/2012 của NHNN, Thông tư số 09/2014/TT-NHNN ngày 18/3/2014 của NHNN,... về các nội dung có liên quan. Đây là những biện pháp và chỉ dẫn cần thiết giúp các TCTD trong việc tập trung nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường phòng ngừa, hạn chế rủi ro và đảm bảo an toàn hệ thống trong điều kiện hiện nay.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 269 trang tài liệu này.

Tuy nhiên, trong thời gian tới, luận án xin kiến nghị một số giải pháp đối với NHNN như sau:

- Bổ sung các biện pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu lực trong việc chấp hành cơ chế, thể lệ tín dụng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra kiểm soát từ phía NHNN, xây dựng hệ thống thanh tra đủ mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng bảo đảm việc kiểm soát hệ thống NHTM đạt hiệu quả cao nhất, mọi hành vi vi phạm quy chế, thể lệ tín dụng phải được xử lý một cách nghiêm túc. Ngoài ra, cần hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy thanh tra ngân hàng theo ngành dọc từ trung ương xuống cơ sở và có sự độc lập tương đối về điều hành và hoạt động nghiệp vụ trong tổ chức bộ máy của NHNN.

Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 27

- Nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin tại Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia việt Nam, bảo đảm cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời nhất. Trung tâm phòng ngừa rủi ro của các NHTM đã đi vào hoạt động được nhiều năm song chưa thực sự phát huy hiệu quả, thông tin thu thập được chưa nhanh nhạy, phong phú và chính xác. Do vậy, các NHTM chưa khai thác được nhiều thông tin phục vụ công tác tín dụng. Để có thể phát huy được vai trò thông tin tín dụng ngân hàng, Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia việt Nam cần cập nhật thông tin một cách nhạy bén, thường xuyên cảnh báo những khách hàng có vấn đề để các NHTM được biết, đồng thời, cần có những biện pháp tuyên truyền thích hợp


để các NHTM nhận thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ trong việc cung cấp và sử dụng thông tin tín dụng. Có như vậy mới tránh được tình trạng đảo nợ hoặc tình trạng chây ỳ trong trả nợ ngân hàng.

- Đưa ra các biện pháp hoàn thiện hệ thống giám sát NHTM theo các hướng cơ bản sau:

+ Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo sớm những tiềm ẩn trong hoạt động của các TCTD, bao gồm việc thành lập Đoàn khảo sát trực tiếp theo nguyên tắc chọn mẫu ngẫu nhiên, phân tích báo cáo tài chính và xác định các điểm có vấn đề.

+ Phát triển và thống nhất cách thức giám sát NHTM trên cơ sở lý luận thực tiễn. Xây dựng cách tiếp cận với công việc, đánh giá chất lượng quản lý rủi ro trong nội bộ các TCTD. Nâng cao yêu cầu kỹ thuật trong việc trích lập DPRR. Tiếp tục tiến hành sắp xếp lại hệ thống NHTM, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các NHTM nhà nước.

- Hoàn thiện quy trình cho vay, quy chế hoá mọi hoạt động trong ngân hàng, đảm bảo được các nguyên tắc hạn chế rủi ro ở mọi khâu trong ngân hàng. Thường xuyên xem xét lại quy trình theo định kỳ, đảm bảo mọi công việc được xử lý một cách đầy đủ, chính xác kịp thời và đúng thẩm quyền. Ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết cách thức tiến hành trích lập và sử dụng quỹ phòng ngừa rủi ro để đưa quỹ phòng ngừa rủi ro thực sự đi vào vận hành trong công tác phòng chống rủi ro tại các NHTM.

- Củng cố, phát triển Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam, bảo

đảm cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời nhất.

- Ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết cách thức tiến hành trích lập và sử dụng quỹ phòng ngừa rủi ro để đưa quỹ phòng ngừa rủi ro thực sự đi vào vận hành trong công tác phòng chống rủi ro tại các NHTM.

- NHNN cần sớm có hướng dẫn cụ thể cho các NHTM về việc phân loại nợ theo phương pháp định tính (theo tinh thần của Quyết định 493) để các NHTM áp dụng xác định mức trích lập cho đúng với thực tế hoạt động tín dụng.

- Hoàn thiện quy chế về vấn đề TSBĐ.

- Luật ngân hàng ra đời là điều kiện môi trường pháp lý giúp các NHTM thực hiện tốt hoạt động kinh doanh của mình. Nhà nước cần cho ra một số đạo luật liên


quan đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đặc biệt cần hoàn thiện tốt hơn nữa luật thế chấp và những văn bản hướng dẫn thế chấp, cầm cố TSBĐ. Mặt khác, cũng phải có các quy định tạo sự dễ dàng hơn trong việc thu giữ, bán TSBĐ trong trường hợp khách hàng không trả được nợ.

- Cần chuyển nhanh sang thực hiện các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ và loại bỏ dần các biện pháp hành chính, công văn cá biệt trong quản lý hoạt động tiền tệ - ngân hàng cũng như trong điều hành chính sách. NHNN cũng cần nâng cao chất lượng công tác dự báo, công tác hoạch định chiến lược, cung cấp cho các TCTD, hay các TCTD có cơ sở để dự báo sát thực tế những diễn biến phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình, cũng như phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng.

- Bằng việc ban hành Thông tư 02 và Thông tư số 09/2014/TT-NHNN ngày 18/3/2014 của NHNN sửa đổi Thông tư 02, trong thời gian qua, NHNN đã có những động thái hết sức tích cực yêu cầu các TCTD phải xây dựng HTXHTDNB để xếp hạng khách hàng, làm cơ sở cho việc xét duyệt cấp tín dụng, quản lý chất lượng tín dụng, xây dựng chính sách DPRR. Tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu của Ủy ban Basel về việc tuân thủ IRB, ngoài những nỗ lực và sự quyết tâm cải tổ chính mình của các NHTM phải thực hiện trong thời gian tới, còn cần tới sự hỗ trợ không nhỏ của các cơ quan giám sát vĩ mô, không chỉ NHNN.

Ngoài những nỗ lực của các NHTM trong đó có Agribank, vai trò của NHNN trong việc hỗ trợ, đảm bảo sự thành công triển khai HTXHTDNB của các NHTM là hết sức quan trọng, thể hiện trên các khía cạnh sau:

(i) Nâng cao cơ sở hạ tầng dữ liệu, đảm bảo thông tin minh bạch, đáng tin cậy: Sự minh bạch thông tin không chỉ giới hạn ở các báo cáo tài chính - kế toán, mà còn bao gồm sự rõ ràng, đầy đủ của các quy chế hoạt động, quản lý, phân cấp quyền hạn, trách nhiệm của những người đứng đầu doanh nghiệp, cơ chế xây dựng và triển khai hệ thống kiểm soát nội bộ và đặc biệt là cơ chế quản lý, XLRR. Để đảm bảo được điều này, việc nâng cấp toàn diện hệ thống cơ sở dữ liệu hỗ trợ từ việc ban hành đồng bộ và hoàn chỉnh khung pháp lý về quản trị thông tin do các cá nhân, doanh nghiệp cung cấp cho đến hình thành hệ thống thu thập, chia sẻ thông tin về người vay dưới định dạng dễ truy cập và toàn diện hết sức cần thiết.


(ii) Ban hành hướng dẫn cụ thể hơn về xây dựng HTXHTDNB: Để định hướng cho các NHTM xây dựng HTXHTDNB đáp ứng đủ tiêu chuẩn được NHNN phê chuẩn và cấp chứng nhận tuân thủ phương pháp tiếp cận IRB, trong thời gian tới, NHNN cần nghiên cứu ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về những chuẩn mực mà NHNN yêu cầu đối với từng cấu phần căn bản như PD/LGD/EAD (theo phương pháp tiếp cận nội bộ cơ bản), đồng thời đảm bảo tính đồng nhất trong việc sử dụng các cấu phần IRB trong công tác quản trị rủi ro và tính toán vốn yêu cầu.

(iii) Nâng cao khả năng đánh giá và giám sát HTXHTDNB, ứng dụng của HTXHTDNB

Như trên đã phân tích, để cơ quan giám sát NHNN chấp nhận chứng thực việc tuân thủ phương pháp tiếp cận nội bộ - IRB cho một Ngân hàng, NHNN cũng cần phát triển một lực lượng chuyên gia giỏi, giàu kinh nghiệm trong việc đánh giá và giám sát HTXHTDNB cũng như việc sử dụng kết quả xếp hạng tín dụng cho các hoạt động quản lý nội bộ của NHTM để đảm bảo rằng:

- Các cấu phần IRB của các NHTM được xây dựng dựa trên dữ liệu đầy đủ, đáng tin cậy; không chỉ nhằm mục đích tuân thủ quy định tính toán vốn yêu cầu mà còn phải đảm bảo chất lượng trong mối liên hệ với ứng dụng quản lý rủi ro;

- Mọi sự suy giảm độ chính xác, hiệu lực mô hình ước lượng cấu phần IRB

đều được phản ánh bởi các quy trình Use test của ngân hàng;

- Ngân hàng không lạm dụng sự linh hoạt của khung IRB để thiết kế hệ thống xếp hạng nhằm khống chế mức vốn theo yêu cầu của cơ quan quản lý giám sát ở mức thấp nhất có thể.

Sự quyết tâm và nỗ lực quyết liệt của NHNN trong 2 năm trở lại đây nhằm triển khai Basel II đã được các Tổ chức quốc tế và các NHTM quan tâm, ủng hộ và đánh giá cao. Một trong những nội dung quan trọng của hoạt động quản lý RRTD theo Basel II là HTXHTDNB. Đây là công việc lớn, phức tạp và đòi hỏi nhiều nguồn lực, song những lợi ích nó mang lại là rất thiết thực và lâu dài, hứa hẹn một cuộc cách mạng về sự hiệu quả và ổn định của hệ thống Ngân hàng. Con đường hội nhập với thông lệ quốc tế đã được định hướng rõ, và với sự quyết tâm, nỗ lực đổi mới của các NHTM cũng như sự vào cuộc quyết liệt, đầu tư kỹ lưỡng


của NHNN như trong thời gian qua, dự án Basel II tin tưởng sẽ được triển khai thành công đúng tiến độ, góp phần hoàn thành Đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.

3.3.3. Đối với một số Bộ - Ngành khác có liên quan

- Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp,... cùng các Bộ - Ngành có liên quan khác phối hợp tháo gỡ vướng mắc về thu giữ TSBĐ tiền vay, phát mại TSBĐ,... Bộ Lao động Thương binh Xã hội cần xem xét tiếp tục điều chỉnh mức lương, thang bậc lương hợp lý đối với hệ thống Agribank, nhất là cán bộ tín dụng để vừa nâng cao trách nhiệm, nâng cao ý thức nhưng cũng đảm bảo quyền lợi cho đội ngũ cán bộ này.

- Bộ Tài chính đề xuất với Chính phủ cấp bổ sung vốn điều lệ cho Agribank. Vì trong xu hướng phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh, yêu cầu Agribank cần tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hiện đại hoá công nghệ ngày càng lớn. Bên cạnh đó dư nợ cho vay và đầu tư ngày càng cao, làm cho tỷ lệ an toàn vốn ngày càng nhỏ. Vì vậy cần thiết hàng năm, Agribank phải được bổ sung vốn điều lệ theo nhu cầu.

- Bộ Tài chính xem xét đề xuất với Chính phủ và Quốc hội nên có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phù hợp với Agribank. Vì, Agribank có màng lưới hoạt động chủ yếu ở nông thôn, có đối tượng cho vay phần đông là hộ sản xuất, chịu rủi ro lớn. Bên cạnh đó Bộ Tài chính cần có chính sách khuyến khích các công ty bảo hiểm mở rộng bảo hiểm trong lĩnh vực NNNT, mặt hàng nông, lâm, thuỷ, hải sản.


Kết luận chương 3


Trong chương 3, luận án đã hoàn thành một số nội dung chính sau đây:

- Nêu lên định hướng hoạt động kinh doanh nói chung và định hướng quản lý RRTD nói riêng. Theo hướng đó, mở rộng tín dụng phải đi đối với nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường quản lý RRTD.

- Để thực hiện tốt định hướng kinh doanh và định hướng quản lý RRTD, các giải pháp được đưa ra dựa trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ bản nêu trong chương 1, kết hợp với tham khảo kinh nghiệm quốc tế, những nguyên nhân chủ quan được nêu lên trong chương 2.

- Hệ thống giải pháp được đề xuất có tính đồng bộ, từ tăng cường kiểm tra, kiểm soát, đến nâng cao chất lượng cán bộ, xây dựng mô hình quản lý tín dụng hiện đại và phù hợp, hoàn thiện văn bản tín dụng nội bộ.

- Một số kiến nghị đối với Nhà nước, đối với NHNN, một số Bộ - Ngành có liên quan tập trung vào hoàn thiện môi trường pháp lý, chuyển sang sử dụng công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ và giảm các biện pháp hành chính trong quản lý của NHNN, cấp đủ vốn điều lệ và một số nội dung khác có liên quan.


KẾT LUẬN CHUNG


Trong kinh doanh ngân hàng, việc NHTM phải đương đầu với RRTD là điều không thể tránh khỏi được. Điều quan trọng là làm thế nào để hạn chế RRTD ở một tỷ lệ thấp nhất, có thể chấp nhận được. Trong thông lệ quốc tế, tổn thất 1% tổng dư nợ bình quân hàng năm là một ngân hàng có trình độ quản lý tốt và hoàn toàn không tác động xấu đến ngân hàng.

Rủi ro tín dụng và các biện pháp hạn chế RRTD là một đề tài mà các nhà quản trị ngân hàng đã và đang nghiên cứu không ngừng nhằm hoàn thiện trong các điều kiện mới để đạt được tỷ lệ lý tưởng nói trên.

Hiện nay cũng như trong nhiều năm tới, hoạt động tín dụng vẫn là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu, hoạt động đem lại thu nhập lớn nhất cho các NHTM ở nước ta nói chung, trong đó có Agribank. Song phát triển tín dụng, mở rộng cho vay phải đi đôi với tăng cường quản lý RRTD, kiểm soát nợ xấu trong ngân hàng. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, với những diễn biến phức tạp và khó lường của thị trường tài chính, thị trường hàng hoá, thiên tai, chính trị, nhất là thị trường nông sản và khu vực nông thôn,… làm cho RRTD ngày càng phức tạp hơn, đặc biệt là những NHTM mà đối tượng khách hàng chịu tác động của các rủi ro đa dạng như Agribank.

Thời gian qua, các NHTM nói chung, Agribank nói riêng đã coi vấn đề quản lý RRTD là hết sức quan trọng trong công tác quản trị của mình cũng như đã có nhiều biện pháp nhằm hạn chế RRTD. Song, kết quả đạt được vẫn chưa thực sự như mong muốn. Do vậy, việc tìm các giải pháp tích cực nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý RRTD luôn mang tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng lâu dài. Vì vậy, yêu cầu không ngừng tăng cường và hoàn thiện quản lý RRTD càng có tính cấp bách.

Thực hiện mục tiêu, nội dung và phạm vi nghiên cứu, đề tài đã hoàn thành các vấn đề chính sau đây:

- Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về quản lý RRTD của NHTM trong nền kinh tế thị trường, luận án đã làm rõ nội dung quản lý RRTD, các nhân tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới quản lý rủi ro, các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả quản lý RRTD.

- Đưa ra một số mô hình quản lý RRTD của Uỷ ban Basel, trực tiếp là Basel II, của một số ngân hàng tại Thailand, Indonesia, Malaysia,... và một số mô hình

Xem tất cả 269 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí