Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ban hành chương trình giáo dục phổ thông mới thay thế Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5 tháng 5 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chương trình giáo dục phổ thông. Ban hành kèm theo Thông tư này, chương trình giáo dục phổ thông bao gồm: (1) Chương trình tổng thể; (2) Các chương trình môn học và hoạt động giáo dục của cấp tiểu học, cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông.
Chương trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng trên cơ sở quan điểm của Đảng, Nhà nước về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, kế thừa và phát triển những ưu điểm của các chương trình giáo dục phổ thông đã có ở Việt Nam, đồng thời tiếp thu thành tựu nghiên cứu về khoa học giáo dục và kinh nghiệm xây dựng chương trình theo mô hình phát triển năng lực của những nền giáo dục tiên tiến trên thế giới; gắn với nhu cầu phát triển của đất nước, những tiến bộ của thời đại về khoa học - công nghệ và xã hội; phù hợp với đặc điểm con người, văn hóa Việt Nam, các giá trị tuyền thống của dân tộc và những giá trị chung của nhân loại cũng như các sáng kiến và định hướng phát triển chung của UNESCO về giáo dục; tạo cơ hội bình đẳng về quyền được bảo vệ, chăm sóc, học tập và phát triển, quyền được lắng nghe, tôn trọng và được tham gia của học sinh; đặt nền tảng cho một xã hội nhân văn, phát triển bền vững và phồn vinh.
1.2.2.2. Chương trình giáo dục nhà trường
Nhà trường là tổ chức giáo dục cơ sở trực tiếp làm công tác giáo dục đào tạo, chịu sự quản lý trực tiếp của các cấp quản lý giáo dục, đồng thời nhà trường cũng là một hệ thống độc lập, tự quản. Việc quản lý nhà trường phải nhằm mục đích nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và phát triển nhà trường. Nói đến việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục tức là nói đến việc tổ chức dạy và học trong nhà trường. Do đó, thực chất công tác quản lý cơ bản trong nhà trường là quản lý hoạt động dạy và học, mà hoạt động dạy và học dựa trên nền tảng cơ bản và cốt lõi là chương trình giáo dục. Có thể nói không có chương trình giáo dục thì người dạy sẽ không biết phải dạy cái gì, phải dạy bắt đầu từ đâu và kết thúc như thế nào. Người học cũng không thể lĩnh hội kiến thức từ nền tảng ban đầu đến nâng cao dần theo cấp học, theo lứa tuổi một cách khoa học toàn diện nếu không có chương trình giáo dục. Do đó thực chất quản lý việc dạy trong nhà trường là quản lý việc thực hiện chương trình giáo dục. Quản lý việc
thực hiện chương trình giáo dục tốt thì mới đạt được mục tiêu giáo dục. Có thể nói việc quản lý thực hiện chương trình giáo dục trong nhà trường là vấn đề cốt lõi, quyết định đến sự thành công hay thất bại trong việc giáo dục đào tạo con người.
Theo tác giả Hồ Văn Liên thì: “Trường phổ thông thực hiện chương trình giáo dục, kế hoạch dạy học do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định ban hành. Chương trình dạy học là văn bản có tính chất pháp lệnh nhà nước. Chương trình quy định nội dung, phương pháp, hình thức dạy học, thời gian, số tiết cụ thể của từng môn học. Đó là cơ sở pháp lý để người Hiệu trưởng quản lý hoạt động dạy học theo đúng yêu cầu, nội dung, sự phân phối chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra. Quản lý việc thực hiện chương trình dạy học của giáo viên là quản lý việc dạy đúng và đủ chương trình theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thiếu một trong hai yếu tố trên thì hoạt động giảng dạy sẽ gặp trở ngại. Quản lý việc thực hiện chương trình dạy học của giáo viên là nhiệm vụ trọng tâm của Hiệu trưởng. Do đó Hiệu trưởng với trách nhiệm cao nhất là người lãnh đạo cao nhất về chuyên môn cần phải nắm vững chương trình càng sâu, càng tốt và hướng dẫn cho giáo viên nắm vững chương trình, có ý thức cao trong việc thực hiện chương trình, không được tùy tiện thay đổi, thêm bớt hoặc làm sai lệch nội dung chương trình dạy học” [17, tr. 45].
Tác giả Lê Thị Ánh Tuyết: “Hiện nay, quan niệm đầy đủ về chương trình giáo dục, đào tạo nói chung gồm các thành tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp, các điều kiện thực hiện và cuối cùng là cách đánh giá kết quả. Với quan niệm trên chương trình giáo dục là một bản thiết kế tổng thể cho biết toàn bộ nội dung, chỉ rõ những gì có thể trông đợi ở người học, phác họa quy trình hoạt động cần thiết để thực hiện nội dung, phương pháp, tổ chức hoạt động, cách đánh giá kết quả ở người học” [23, tr.45].
Nhìn chung, có thể xem chương trình giáo dục là nội dung, còn quá trình dạy học là phương tiện; thiết kế chương trình giáo dục là xây dựng kế hoạch cho các hoạt động dạy học, còn quá trình dạy học là đưa kế hoạch đó vào thực thi; do vậy việc hoạch định, thiết kế chương trình giáo dục phải đi trước việc hoạch định, triển khai quá trình dạy học. Trong lịch sử phát triển, mối quan hệ giữa chương trình giáo dục và quá trình dạy học đã được xem xét qua một số mô hình khác nhau (mô hình nhị nguyên, mô hình liên kết, mô hình đồng tâm, mô hình chu trình); trong đó mô hình chu trình được xem là mô hình có ưu thế hơn cả.
Một chương trình giáo dục chính thức bao giờ cũng phải là chương trình mang tính quốc gia, trong đó xác định khung kế hoạch sư phạm và những quy định cụ thể để các trường học trong hệ thống giáo dục quốc gia tuân thủ nhằm đạt được mục tiêu giáo dục chung.
Như vậy, có thể hiểu: Chương trình giáo dục nhà trường là bản kế hoạch bao gồm những cách thức nhà trường thực hiện các tuyên bố trong chương trình quốc gia. Chương trình đó được tổ chức linh hoạt trên cơ sở điều chỉnh quá trình dạy học gần với năng lực của mỗi HS với những thay đổi trong điều kiện kinh tế - xã hội, phù hợp với các nguồn lực của địa phương và được thiết kế với sự tham gia của hội đồng nhà trường.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý phát triển chương trình giáo dục nhà trường ở trường trung học cơ sở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang theo chương trình giáo dục phổ thông mới - 1
- Quản lý phát triển chương trình giáo dục nhà trường ở trường trung học cơ sở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang theo chương trình giáo dục phổ thông mới - 2
- Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới, Chương Trình Giáo Dục Nhà Trường, Chương Trình Dạy Học Nhà Trường
- Quy Trình Phát Triển Chương Trình Giáo Dục Nhà Trường Ở Trường Thcs Theo Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Phát Triển Chương Trình Giáo Dục Nhà Trường Ở Trường Thcs Theo Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới
- Thực Trạng Phát Triển Chương Trình Giáo Dục Nhà Trường Theo Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Mới Ở Các Trường Thcs Huyện Lục Nam, Tỉnh Bắc Giang
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
1.2.3. Phát triển, phát triển chương trình, phát triển chương trình giáo dục nhà trường, quản lý phát triển chương trình giáo dục nhà trường
1.2.3.1. Phát triển
Thuật ngữ phát triển, theo nghĩa triết học là biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, đơn giản đến phức tạp [4]. Lý luận của Phép biện chứng duy vật khẳng định: Mọi sự vật, hiện tượng không phải chỉ là sự tăng lên hay giảm đi về mặt số lượng mà cơ bản chúng luôn biến đổi, chuyển hóa từ sự vật, hiện tượng này đến sự vật, hiện tượng khác, cái mới kế tiếp cái cũ, giai đoạn sau kế thừa giai đoạn trước tạo thành quá trình phát triển mãi mãi. Phát triển là quá trình nội tại, là bước chuyển hóa từ thấp đến cao, trong cái thấp đã chứa đựng dưới dạng tiềm năng những khuynh hướng dẫn đến cái cao, còn cái cao là cái thấp đã phát triển. Phát triển là quá trình tạo ra sự hoàn thiện của cả tự nhiên và xã hội.
Từ những quan niệm nêu trên, chúng tôi lựa chọn khái niệm phát triển theo quan điểm triết học: Phát triển là một phạm trù của triết học, là quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của một sự vật. Quá trình vận động đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt để đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, quá trình diễn ra theo đường xoắn ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở mức (cấp độ) cao hơn [4].
Một số đặc trưng cơ bản của phát triển:
- Tất cả mọi sự vật, hiện tượng khi phát triển đều có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau.
- Nói đến phát triển là quá trình vận động không ngừng.
- Từ phát triển về số lượng dẫn đến phát triển về chất lượng.
- Phát triển thể hiện thông qua sự đấu tranh của các mặt đối lập. Như vậy, sự vật, hiện tượng - con người - xã hội biến đổi để tăng tiến về số lượng hay chất lượng dưới tác động của bên trong hoặc bên ngoài đều được coi là phát triển.
1.2.3.2. Phát triển chương trình
Theo Nguyễn Đức Chính, phát triển chương trình là một quá trình liên tục nó bao gồm các yếu tố: (1) Phân tích nhu cầu; (2) Xác định mục đích và mục tiêu; (3) Thiết kế;
(4) Thực thi và (5) Đánh giá. Năm yếu tố này được bố trí thành 1 vòng tròn khép kín, biểu diễn sự phát triển chương trình giáo dục như một quá trình diễn ra liên tục.
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi cho rằng: phát triển chương trình được xem là quá trình thiết kế, điều chỉnh, sửa đổi chương trình dựa trên việc đánh giá chương trình được thường xuyên, liên tục.
1.2.3.3. Phát triển chương trình giáo dục nhà trường
Phát triển chương trình giáo dục nhà trường là quá trình nhà trường cụ thể hoá chương trình giáo dục quốc gia, làm cho chương trình giáo dục quốc gia phù hợp ở mức cao nhất với thực tiễn của cơ sở giáo dục. Trên cơ sở đảm bảo yêu cầu chung của chương trình giáo dục quốc gia, nhà trường sẽ lựa chọn, xây dựng nội dung và xác định cách thức thực hiện phản ánh đặc trưng và phù hợp với thực tiễn nhà trường nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của người học, thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục. Vấn đề phát triển chương trình nhà trường (school-based curriculum development) đã được tiến hành ở Mĩ, Canada, Anh, Israel, Australia, New Zealand… (từ những năm 90 của thế kỉ XX) và ở Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan… (từ năm 2000). Phát triển chương trình nhà trường một mặt nhằm thực hiện sự phân cấp trong phát triển chương trình giáo dục và tăng cường tính dân chủ trong quản lí hệ thống giáo dục; mặt khác tạo điều kiện để các nhà trường, trên cơ sở phân tích chương trình giáo dục quốc gia, hoạch định, thiết kế các chương trình, kế hoạch dạy học cụ thể, phù hợp với riêng mình, nâng cao trách nhiệm của nhà trường đối với nhu cầu và lợi ích của giáo dục nói chung, với giáo viên và học sinh của mình nói riêng [Dẫn theo 3].
Theo diễn giải của Nguyễn Đức Chính (2008), chương trình giáo dục không dừng lại ở việc thiết kế mà là một quá trình liên tục phát triển nhằm hoàn thiện không
ngừng. Do vậy, chương trình giáo dục là một thực thể không phải được thiết kế một lần và dùng cho mãi mãi, mà được phát triển, bổ sung, hoàn thiện tuỳ theo sự thay đổi của trình độ phát triển kinh tế - xã hội, của thành tựu khoa học - kĩ thuật và công nghệ, của thị trường sử dụng lao động.
Như vậy, có thể hiểu phát triển chương trình giáo dục nhà trường là quá trình nhà trường đánh giá, điều chỉnh, thiết kế lại chương trình giáo dục quốc gia, làm cho chương trình giáo dục quốc gia phù hợp ở mức cao nhất với thực tiễn của cơ sở giáo dục. Trên cơ sở đảm bảo yêu cầu chung của chương trình giáo dục quốc gia, nhà trường sẽ lựa chọn, xây dựng nội dung và xác định cách thức thực hiện phản ánh đặc trưng và phù hợp với thực tiễn nhà trường nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của người học, thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục [Dẫn theo 3].
1.2.3.4. Quản lý phát triển chương trình giáo dục nhà trường ở trường THCS
Quản lý giáo dục là một quá trình tác động có định hướng của chủ thể quản lý trong việc vận hành những nguyên lý, phương pháp… chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực giáo dục đảm bảo sự vận hành tối ưu của hệ thống/tổ chức/cơ quan giáo dục - đào tạo, nhờ đó đạt được mục tiêu phát triển theo yêu cầu của xã hội.
Quản lý phát triển chương trình giáo dục nhà trường nói chung và ở trường THCS nói riêng là cách thức nhà quản lý tiến hành lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và tiến hành kiểm tra, đánh giá quá trình dịch chuyển từ chương trình giáo dục quốc gia đến chương trình giáo dục nhà trường từ mục tiêu, nội dung chương trình đến đội ngũ giáo viên, trình độ học sinh, sách giáo khoa,...phù hợp với những thay đổi trong điều kiện kinh tế - xã hội, phù hợp với các nguồn lực của địa phương.
1.3. Những vấn đề cơ bản về phát triển chương trình giáo dục nhà trường ở trường các THCS huyện Lục Nam theo chương trình giáo dục phổ thông mới
1.3.1. Một số đặc điểm tâm lí cơ bản của học sinh THCS
Lứa tuổi học sinh THCS nói chung bao gồm những em có độ tuổi từ 11 đến 15 tuổi, đang theo học lớp 6 đến lớp 9 ở trường THCS. Lứa tuổi này còn được gọi là tuổi thiếu niên, tuổi khủng hoảng, tuổi khó bảo, là giai đoạn chuyển tiếp quan trọng đánh dấu bước ngoặt lớn cho các giai đoạn phát triển tiếp theo của trẻ bởi đây là thời kỳ quá độ từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành. Điều đó được biểu hiện ở sự phát triển
mạnh mẽ, thiếu cân đối về cơ thể, ở sự phát dục và xây dựng lại một cách cơ bản các quá trình, các hoạt động tâm lí ở trẻ em, ở sự hình thành kiểu quan hệ mới của các em với người lớn và bạn bè cùng lứa tuổi. Tầm quan trọng của giai đoạn thiếu niên là ở chỗ: Sự phát triển về mọi mặt (thể chất, đạo đức, trí tuệ, xã hội) đều diễn ra sự hình thành những cấu tạo mới về chất, xuất hiện những yếu tố mới của sự trưởng thành và chúng sẽ tiếp tục được phát triển ở tuổi thanh niên.
Giao tiếp là hoạt động chủ đạo của học sinh trung học cơ sở. Lứa tuổi này diễn ra những thay đổi rõ rệt trong quan hệ với người lớn và bạn cùng tuổi. Đặc điểm cơ bản trong giao tiếp của thiếu niên với người lớn là nhu cầu cải tổ lại mối quan hệ này theo chiều hướng hạn chế quyền hạn của người lớn, mở rộng quyền hạn của mình. Các em mong muốn có được quyền bình đẳng nhất định đối với người lớn, muốn được người lớn tin tưởng, tôn trọng và mở rộng tính độc lập của mình. Nhu cầu giao tiếp với bạn trở thành một đòi hỏi tất yếu và mạnh mẽ ở học sinh trung học cơ sở. Các em mong muốn được bạn bè thừa nhận, tôn trọng mình. Nhu cầu chọn bạn để có bạn thân đã trở thành một đòi hỏi ngày càng cấp bách ở học sinh THCS. Học sinh THCS coi quan hệ bạn bè cùng lứa tuổi là quan hệ của những cá nhân, vì vậy các em cho rằng các em các quyền hoạt động độc lập trong mối quan hệ này. Sự can thiệp thiếu tế nhị của người lớn khiến các em cảm thấy bị xúc phạm, các em sẽ chống đối lại. Nếu như quan hệ của các em với người lớn không thuận hoà thì sự giao tiếp với bạn bè cùng lứa tuổi sẽ tăng lên và ảnh hưởng của bạn bè đến các em càng mạnh mẽ. Sự bất hoà trong những quan hệ với bạn bè cùng lớp, sự thiếu bạn thân hoặc tình bạn bị phá vỡ là nguyên nhân làm nảy sinh ở học sinh THCS những xúc cảm nặng nề.
Các quá trình nhận thức ở học sinh trung học cơ sở như tri giác, tư duy, tưởng tượng, trí nhớ đều phát triển mạnh mẽ. Tư duy trừu tượng đã chiếm ưu thế trong quá trình nhận thức của các em. Chú ý, ngôn ngữ cũng biến đổi về chất so với lứa tuổi trước. Những thành tựu trong sự phát triển nhận thức của học sinh trung học cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học cơ sở.
Sự phát triển tự ý thức là bước chuyển biến cơ bản, là bước ngoặt quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh trung học cơ sở. Đặc điểm quan trọng về tự ý thức của lứa tuổi học sinh THCS là sự mâu thuẫn giữa nhu cầu tìm
hiểu bản thân với kỹ năng chưa đầy đủ để phân tích đúng đắn sự biểu lộ của nhân cách. Đây chính là cơ sở nảy sinh mâu thuẫn giữa thái độ của các em với bản thân mình và thái độ của các em với người lớn, với bạn bè cùng lứa tuổi. Điều kiện thuận lợi cho sự hình thành tự ý thức của học sinh THCS là cuộc sống tập thể, ở đó, các em tiếp nhận nhiều giá trị đúng đắn cùng với những yêu cầu ngày càng cao đối với các em. Khi nhu cầu tự ý thức hình thành và phát triển sẽ làm nảy sinh khát vọng tự tu dưỡng ở học sinh THCS. Trên cơ sở tự tu dưỡng các em khắc phục những khuyết điểm, những sai lầm và hình thành cho mình những nét nhân cách tốt. Quá trình phát triển chương trình giáo dục nhà trường ở trường trung học cơ sở cần tính đến các đặc điểm tâm lý này của học sinh.
1.3.2. Mục tiêu phát triển chương trình giáo dục nhà trường ở trường THCS theo chương trình giáo dục phổ thông mới
Mục tiêu của phát triển chương trình giáo dục nhà trường ở trường THCS theo chương trình giáo dục phổ thông mới là nhằm khắc phục hạn chế của chương trình, sách giáo khoa hiện hành, đồng thời giúp giáo viên nhanh chóng thích ứng và dịch chuyển có hiệu quả sang quá trình thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
Xây dựng chương trình giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện địa hóa, gắn với thực tiễn xã hội, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú ý giáo dục thể chất, tinh thần, bồi dưỡng nhân cách học sinh.
Xây dựng chương trình phù hợp với điều kiện của nhà trường tạo điều kiện phát triển năng lực tư duy, tăng tính thực tiễn, giảm áp lực cho người học nhưng vẫn đảm bảo trang bị cho người học các kiến thức, kĩ năng và năng lực cơ bản để có thể tham gia kì thi tốt nghiệp THCS hằng năm.
Nhằm tăng cường hiệu quả dạy học, giúp học sinh nắm vững kiến thức, có khả năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn và có điều kiện để phát triển năng lực sở trường của cá nhân.
Phát triển chương trình giáo dục nhà trường nhằm xây dựng chương trình giáo dục phổ thông thống nhất nhưng khả thi, mềm dẻo, linh hoạt và phù hợp với điều kiện
bảo đảm thực tế của nhà trường, nhất là về đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất kĩ thuật cũng như với khả năng tiếp thu của học sinh.
1.3.3. Chương trình giáo dục phổ thông mới ở cấp THCS
Chương trình giáo dục phổ thông mới vừa kế thừa và phát triển những ưu điểm của Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, vừa khắc phục những hạn chế, bất cập của chương trình này. Những điểm cần khắc phục cũng chính là những khác biệt chủ yếu của chương trình mới so với chương trình hiện hành.
Về phương châm giáo dục, Chương trình giáo dục phổ thông mới kế thừa các nguyên lí giáo dục nền tảng như “Học đi đôi với hành”, “Lí luận gắn liền với thực tiễn”, “Giáo dục ở nhà trường kết hợp với giáo dục ở gia đình và xã hội”.
Về nội dung giáo dục, bên cạnh một số kiến thức được cập nhật để phù hợp với những thành tựu mới của khoa học - công nghệ và định hướng mới của chương trình, kiến thức nền tảng của các môn học trong Chương trình giáo dục phổ thông mới chủ yếu là những kiến thức cốt lõi, tương đối ổn định trong các lĩnh vực tri thức của nhân loại, được kế thừa từ Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, nhưng được tổ chức lại để giúp học sinh phát triển phẩm chất và năng lực một cách hiệu quả hơn.
Về hệ thống môn học, trong chương trình mới, chỉ có một số môn học và hoạt động giáo dục mới hoặc mang tên mới là: Tin học và Công nghệ, Ngoại ngữ, Hoạt động trải nghiệm ở cấp tiểu học; Lịch sử và Địa lí, Khoa học tự nhiên ở cấp THCS; Âm nhạc, Mĩ thuật, Giáo dục kinh tế và pháp luật ở cấp THPT; Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở các cấp THCS.
Ở cấp THCS, môn Khoa học tự nhiên được xây dựng trên cơ sở tích hợp kiến thức của các ngành vật lí, hóa học, sinh học và khoa học Trái Đất; môn Lịch sử và Địa lí được xây dựng trên cơ sở tích hợp kiến thức của các ngành lịch sử, địa lí. Học sinh đã học môn Khoa học, môn Lịch sử và Địa lí ở cấp tiểu học, không gặp khó khăn trong việc tiếp tục học các môn này. Chương trình hai môn học này được thiết kế theo các mạch nội dung phù hợp với chuyên môn của giáo viên dạy đơn môn hiện nay nên cũng không gây khó khăn cho giáo viên trong thực hiện.
Các môn học bắt buộc: Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ 1, Giáo dục công dân, Khoa học tự nhiên, Lịch sử và Địa lý, Công nghệ, Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Tin học