Xây Dựng Cơ Chế Xử Lý Nợ Phù Hợp Với Tình Hình Thực Tế


Để VAMC hoạt động thực sự hiệu quả, cần chú trọng vào một số giải pháp sau:

- VAMC cần được giao quyền lực đủ mạnh. Quyền lực của VAMC cần được giao cụ thể với nguồn ngân sách nhất định, gắn với một thời hạn cụ thể để giúp xử lý các khoản nợ xấu đang ở mức cao. Tuy nhiên, cần làm rõ rằng VAMC là các công ty quản lý tài sản chứ không phải là kho lưu giữ nợ xấu của hệ thống tài chính.

- Phát triển khung pháp lý cho thị trường mua - bán và xử lý tài sản xấu. Để VAMC dễ dàng thu hồi các khoản nợ đã mua, cần xây dựng và phát triển khung pháp lý sẵn sàng cho một thị trường mua - bán và xử lý tài sản xấu. Điều này giúp tránh trường hợp khi cần áp dụng một chính sách xử lý nợ nào đó thì lại gặp phải những cản trở về pháp lý trong thực thi.

- Xử lý nợ xấu phải đi đôi với tái cấu trúc doanh nghiệp, đặc biệt là DNNN. Do nợ xấu của ngân hàng và nợ xấu của doanh nghiệp là hai mặt của đồng tiền. Do vậy, VAMC ra đời để xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, thì đồng thời cũng có thể giải quyết được vấn đề nợ xấu của các DNNN.

4.4.1.2. Xây dựng cơ chế xử lý nợ phù hợp với tình hình thực tế

Nhằm hỗ trợ quá trình xử lý nợ xấu một cách triệt để, hiệu quả, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xây dựng các cơ chế, chính sách mới nhằm tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng.

Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế với tài sản đảm bảo tiền vay.

Do quá trình xử lý tài sản đảm bảo rất dễ xảy ra các tranh chấp, bất đồng về lợi ích giữa các bên liên quan đến tài sản đảm bảo nên cần phải thiết lập một hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm, trong đó có qui định về xử lý tài sản bảo đảm thực sự đồng bộ, hoàn thiện.

Hoàn thiện các qui định về các giao dịch đảm bảo tiền vay, trong đó có qui định rõ ràng về định giá tài sản đảm bảo là BĐS theo hướng tự thỏa thuận theo giá thị trường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 200 trang tài liệu này.

Xây dựng tiền đề chuẩn bị cho bước phát triển tiếp theo là tài chính hóa các giao dịch trên thị trường, phát triển thị trường tài chính BĐS. Để làm được điều này cần phải coi hoạt động thế chấp của ngân hàng là một bộ phận của thị trường tài chính chứ không chỉ đơn thuần là của hoạt động cho vay tín dụng.


Quản lý nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - 23

Một loại tài sản đảm bảo đang khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay là bất động sản. Vướng mắc nằm ở chỗ thủ tục phát mại BĐS thế chấp hiện lên đến 3 - 4 năm, quá chậm trễ để xử lý nợ xấu. Thủ tục về phát mại cũng như chuyển nhượng quyền sử dụng đất cần được rút ngắn theo cơ chế một cửa để giúp đỡ ngân hàng và công ty mua, bán nợ thanh lý tài sản, thu hồi vốn. Để đồng bộ trong việc xử lý tài sản đảm bảo là BĐS cần sự hỗ trợ chế định trên nhiều khía cạnh. Luật Đất đai thiết yếu phải được sửa đổi nhằm quản lý và qui hoạch hiệu quả. Quyền sở hữu và sử dụng đối với đối tượng đảm bảo là đất đai chưa đủ giấy tờ cần có văn bản qui định rõ ràng, tạo điều kiện cho ngân hàng nhận đảm bảo, đồng thời phải tránh hiện tượng lợi dụng kẽ hở dùng đất không chính chủ để vay nợ.

Chồng chéo trong xử lý tài sản đảm bảo cũng làm chậm tiến độ xử lý nợ xấu của NHTM nói chung và NHNo&PTNT Việt Nam nói riêng. Như trường hợp tài sản đảm bảo bị đưa ra tranh chấp ở Toà án, thủ tục giải quyết kéo dài làm cho ngân hàngkhó thu lại được tài sản đảm bảo hoặc khi thu được thì giá trị bị giảm đi đáng kể. Cần sửa đổi các qui định cụ thể giảm trong trường hợp này, đồng thời giải quyết tài sản đảm bảo cần linh hoạt, tránh hình sự hoá.

Thứ hai, hoàn thiện cơ chế phân loại nợ xấu.

Do có sự khác nhau trong chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) nên việc phân loại nợ xấu và công bố các thông tin và nợ xấu của các NHTM còn chưa chính xác và thống nhất. Gần đây nhất, NHNN đã ban hành Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 qui định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Do vậy, cần nhanh chóng hơn nữa trong việc xây dựng các bộ qui chế mới về phân loại nợ xấu theo chuẩn quốc tế. Làm được điều này thì nợ xấu NHTM mới được nhận định một cách cụ thể, rõ ràng, trung thực nhất để có hướng giải quyết phù hợp.

Thứ ba, hoàn thiện, cơ chế chính sách cho doanh nghiệp.

Để hỗ trợ doanh nghiệp, NHNN cần có chính sách lãi suất phù hợp. Lãi suất cơ bản do NHNN công bố tháng 1/2013 là 9%/năm. Đây là nỗ lực của NHNN trong việc giảm trần lãi suất. Tuy nhiên, hiện tại doanh nghiệp vẫn đang phải đi


vay với lãi suất thực lớn hơn rất nhiều. Việc khống chế hai đầu lãi suất như hiện nay đang hướng vào các ngân hàng lớn thông qua cho vay tái cấp vốn ưu đãi để tái cơ cấu lại. Đây là giải pháp nhằm giúp cho hệ thống NHTM ngăn ngừa nợ xấu, từ đó phát triển bền vững. NHNN nên tiến tới thả nổi lãi suất, để cạnh tranh các ngân hàng buộc phải giảm lãi suất cho vay và lãi suất huy động. Có thể việc tự do hoá lãi suất theo sự điều chỉnh của thị trường sẽ làm cho lãi suất tăng lên trong ngắn hạn nhằm điều chỉnh lại mức kiềm chế trước đây nhưng sau đó sẽ tự động điều chỉnh về mức cân bằng cung cấu. Doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong việc vay vốn cũng như trả nợ, nhằm tránh hình thành các khoản vay mất thanh khoản.

Tiến độ tái cấu trúc và sắp xếp lại DNNN cần được đẩy mạnh để giải quyết các khoản nợ xấu tồn đọng tại các NHTM. Trước hết, Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển DNNN cần chỉnh sửa, bổ sung các qui định cụ thể buộc quá trình cổ phần hoá nhanh chóng tiến hành triệt để, phê duyệt các phương án tái cấu trúc và sắp xếp lại do các DNNN soạn thảo.

Thứ tư, tái cấu trúc hệ thống NHTM.

Chính phủ cần quyết liệt hơn nữa để thực hiện Đề án tái cấu trúc các tổ chức tín dụng, trong đó thúc đẩy các NHTM và NHNN cổ phần hoá, tăng cường năng lực quản trị, nghiệp vụ hiện tại và năng lực tài chính của các NHTM để trở thành nòng cốt cho toàn hệ thống. Các NHTM cổ phần yếu kém cần được thúc đẩy giải thể, sáp nhập, hợp nhất với nhau.

Để nâng cao năng lực tài chính của NHNo&PTNT Việt Nam cũng như các NHTM nhà nước khác giảm bớt nợ xấu, nhà nước cần cung cấp vốn cho các NHTM này để đảm bảo mức an toàn vốn tối thiểu là 8% - tương đương với các NHTM trong khu vực. Những năm gần đây, nhà nước đã cung cấp thêm vốn chủ yếu thông qua hình thức cấp trái phiếu chính phủ không chuyển đổi - một công cụ thanh khoản rất kém, do đó không tăng khả năng thanh khoản cho NH. Chính phủ nên tăng vốn cho NHNo&PTNT Việt Nam bằng nguồn tái cấp vốn hoặc cho phép NHNo&PTNT Việt Nam phát hành trái phiếu đặc biệt và phương thức bán cổ phần ưu đãi. Trong tất cả các phương thức để tăng cường năng lực tài chính này, việc cơ cấu và xử lý cần được đặt vào nhiệm vụ trọng tâm.


NHNN nên có chính sách phát triển các đơn vị xếp hạng tín dụng độc lập làm cơ sở tham chiếu chung trong công tác xếp hạng tín dụng. Kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực cho thấy, có thể cho phép thành lập các tổ chức định mức tín dụng không do nhà nước quản lý, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp cổ phần, để hạn chế việc chi phối của tổ chức hay cá nhân, làm sai lệch kết quả xếp hạng.

Hiện tại mới chỉ có Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) thuộc NHNN là tổ chức công duy nhất đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp thường niên. Mặc dù CIC là tổ chức thuộc NHNN, thực hiện chức năng cung cấp thông tin tín dụng cho các NHTM, TCTD khác và doanh nghiệp có thu phí. Tuy nhiên, thông tin mà CIC cung cấp thường chưa được cập nhật và mức độ chuẩn xác chưa cao, chủ yếu là các thông tin tài chính. Do đó, để hỗ trợ CIC phải có một cơ chế phân định trách nhiệm rõ ràng, cũng với chế tài xử phạt cả về mặt hành chính và tài chính để đảm bảo các tổ chức liên quan thực hiện đúng trách nhiệm của mình.

Hoạt động của thị trường tiền tệ cần được đẩy mạnh, phát triển thị trường chứng khoán và các tài sản có tính thanh khoản cao khác nhằm tạo ra sự linh hoạt cho toàn thị trường, từ đó giảm bớt khối lượng nợ xấu trong tương lai.

Cải cách ngân hàng cần được gắn với cải cách toàn diện nền kinh tế. Tái cấu trúc hệ thống NHTM cần được thực hiện song song với đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô, cải cách bộ máy quản lý nhà nước và tái cấu trúc doanh nghiệp nhằm tạo ra hiệu ứng đổi mới đồng bộ cho toàn bộ nền kinh tế.

Thứ năm, hạn chế sở hữu chéo, góp phần giảm thiểu nợ xấu của NHTM.

Một là, khống chế tỷ lệ sở hữu chéo. Giải quyết vấn đề sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng là một trong những vấn đề chính mà quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng hướng tới. Mặc dù, Chính phủ và NHNN đã đưa ra qui định hạn chế tỷ lệ sở hữu giữa các ngân hàng với nhau cũng như yếu cầu các tập đoàn nhà nước phải thoát vốn khỏi các tổ chức tài chính. Luật các tổ chức tín dụng hiện hành có qui định về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần (cổ đông cá nhân không quá 5% vốn điều lệ tổ chức tín dụng, cổ đông tổ chức không quá 15%). Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn nhiều khoảng trống cần được xem xét. Một cá nhân hoặc một doanh nghiệp có thể ảnh hưởng rất


lớn đến các hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thông qua các công ty con của mình. Việc khống chế tỷ lệ sở hữu chéo tại các tổ chức tài chính, tín dụng bởi cá nhân cũng như doanh nghiệp cần phải tính đến cả những sở hữu gián tiếp này. Trước mắt, thách thức của Việt Nam trong thời gian tới vẫn là tìm lời giải cho bài toán giải quyết vấn đề nợ xấu, nợ quá hạn trong hệ thống các tổ chức tín dụng để ổn định thanh khoản toàn hệ thống. Theo đó, để thực hiện việc làm sạch các khoản nợ xấu và nợ quá hạn của hệ thống các tổ chức tín dụng, rõ ràng Việt Nam cần phải có một dòng vốn “sạch” tương đối lớn từ bên ngoài bơm vào. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để “thu hút” được dòng vốn ấy.

Hai là, xem xét tăng room cho các nhà đầu tư nước ngoài vào các NH Việt Nam. Chúng ta có thể cân nhắc tới việc tăng room cho các nhà đầu tư nước ngoài vào các ngân hàng Việt Nam, bởi các ngân hàng bao gồm các ngân hàng trên thế giới đều có nhu cầu vốn lớn hơn nhằm đáp ứng tiêu chuẩn Basel III. Với tiềm lực tài chính tăng thêm, năng lực cạnh tranh của các ngân hàng cũng vì thế tăng lên đáng kể nhất là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đã và đang và sẽ còn tiếp tục trong tình trạng suy thoái, khủng hoảng.

Ngoài ra, sự tham gia của một ngân hàng nước ngoài vào ngân hàng Việt Nam và tăng tỷ lệ sở hữu của ngân hàng nước ngoài có thể giúp giảm tỷ lệ sở hữu chéo giữa các ngân hàng trong nước. Hơn nữa, khi tỷ lệ sở hữu tăng lên, đạt tới một mức độ đủ lớn nhất định, ngân hàng ngoại có vai trò lớn hơn, có thể đóng góp nhiều hơn trong việc xây dựng chiến lược phát triển và kể cả xử lý nợ xấu của ngân hàng nội. Các ngân hàng ngoại vừa có kinh nghiệm, kỹ năng đánh giá nợ xấu của ngân hàng, vừa có nguồn vốn để có thể tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu.

Ba là, tăng cường vai trò giám sát của cơ quan quản lý nhà nước.

Việc sở hữu chéo giữa các ngân hàng cũng tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp sở hữu ngân hàng này có thể dễ dàng vay được vốn từ ngân hàng kia. Từ đó, rất có thể dẫn đến việc các ngân hàng thương mại sẽ tiến hành thẩm định vốn vay thiếu thận trọng. Nếu điều này xảy ra, đây có thể coi là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến nợ xấu trong hệ thống các tổ chức tín dụng của Việt Nam hiện nay đang ở mức cao. Cần phải thừa nhận rằng, có sở hữu chéo vì trước đây pháp luật không cấm một ngân hàng hoặc một cổ đông sở hữu cổ phần của


nhiều ngân hàng khác nhau. Do đó, có hiện tượng cổ đông của các ngân hàng lập ra công ty con vay tiền của chính ngân hàng đó để đầu tư sang ngân hàng khác, tạo thành một chuỗi sở hữu nhằng nhịt, tạo ra mạng lưới sở hữu chéo giữa các ngân hàng, làm tăng nguy cơ rủi ro hệ thống.

Vì thế, NHNN cần tăng cường vai trò thanh tra giám sát, đánh giá sát thực trạng tài chính cũng như thực trạng cổ đông ngân hàng để làm rõ việc sở hữu chéo ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNN nên sớm ban hành các qui định pháp luật liên quan đến vấn đề sở hữu chéo để hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh, minh bạch hơn.

Thứ sáu, phát triển thị trường mua, bán nợ.

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy mua, bán nợ chính là một trong những biện pháp quan trọng để thoát khỏi khủng hoảng. Khi xử lý được nợ xấu sẽ ổn định tài chính trong nước và nâng cao sức cạnh tranh cho các định chế tài chính. Nhiều nhà quản lý cho rằng nếu không có thị trường mua - bán nợ thì Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản quốc gia sẽ trở thành độc quyền. Do đó, sẽ dẫn đến hàng loạt các vấn đề về tính minh bạch, về lợi ích nhóm, hiệu quả hoạt động, tiêu cực...

Việc phát triển thị trường mua - bán nợ là hướng đi tích cực vì nợ xấu cũng là một “hàng hoá”, đây là cách thức để tạo ra một hạ tầng trong xã hội để có điều kiện ứng phó với khủng hoảng nợ xấu trong tương lai. Để phát triển thị trường mua - bán nợ, có hai cấp độ thị trường, sơ cấp và thứ cấp: Sơ cấp là trực tiếp giao dịch giữa một bên là NHTM với các tổ chức xử lý nợ; thứ cấp là mua - bán giữa các nhà đầu tư với nhau trên thị trường thứ cấp. Hai phạm trù khác nhau và cơ chế chính sách để thúc đẩy thị trường đó cũng khác nhau.

Việc xử lý nợ xấu ở Việt Nam nên kết hợp mô hình xử lý nợ xấu tập trung và phát triển thị trường mua - bán nợ để làm sao xã hội hoá nguồn cầu trong đầu tư nợ xấu của Việt Nam. Nhà nước cũng cần có cơ chế “cây gậy và củ cà rốt” để phát triển thị trường mua - bán nợ sơ cấp. Bởi nếu không có chế tài của NHNN để ép các TCTD phải có trách nhiệm hơn trong xử lý nợ xấu, họ vẫn để nợ xấu từ từ xử lý. NHNN có thể đưa ra qui định trong vòng bao nhiêu năm đó, nếu NHTM không giảm được tỷ lệ nợ xấu thì không được mở rộng hoạt động, yêu cầu trích


lập dự phòng trên 100%.Thực tế có những quốc gia trên thế giới yêu cầu trích lập dự phòng 150% - 250%.

Để thị trường mua - bán nợ hình thành tại tại Việt Nam, cần phát triển các công ty chuyên mua - bán nợ và tài sản tồn đọng của các thành phần kinh tế. Tiếp đó, phải có hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách vĩ mô tạo hành lang cho thị trường vận hành trôi chảy như những thị trường khác.

Thứ bảy, tìm sự an toàn cho tăng trưởng tín dụng.

Về nguyên tắc để xử lý nợ xấu có hai cách: (i) tăng dư nợ tín dụng mới sẽ giúp giảm tỷ lệ nợ xấu; (ii) giảm qui mô nợ xấu. Vì vậy, song song với các biện pháp nhằm giảm qui mô nợ xấu thì NHNo&PTNT Việt Nam nên áp dụng các giải pháp nhằm tăng trưởng tín dụng.

- Cần có bước đột phá cho tăng trưởng tín dụng nông nghiệp nông thôn. Thực tế cho thấy, tiềm năng và vai trò của nông nghiệp là rất to lớn, cả hiện tại và tương lai. Mở rộng qui mô, đa dạng hóa các kênh, sản phẩm dịch vụ tín dụng cho nông nghiệp và điều kiện và là cơ hội mới cho cả nông nghiệp, nông dân, nông thôn, doanh nghiệp và ngân hàng, cũng như cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước theo yêu cầu phát triển bền vững.

- Hoàn thiện cơ sở pháp lý và xây dựng, quản lý ổn định các qui hoạch kinh doanh vùng nông nghiệp chuyên canh theo mô hình công nghiệp. Với các qui hoạch có chất lượng khoa học và cơ sở pháp lý cao, cần tiếp tục rà soát và hoàn thiện các luật chuyên ngành có liên quan như Luật Đất đai nhằm tạo cơ sở pháp lý cần thiết hỗ trợ và thúc đẩy quá trình dồn điền - đổi thửa, chuyển đổi cơ cấu kinh doanh, hình thành những cánh đồng mẫu lớn, giá trị gia tăng cao theo mô hình kinh doanh tiên tiến, có sự kết hợp từ đầu vào chặt chẽ, trong đó có NHTM. Đây là điều kiện hàng đầu để mở rộng đối tượng cho vay không chỉ sản xuất, mà còn cả đối tượng chế biến, tiêu thụ, phát triển cho vay theo các chuỗi cung ứng và liên kết sản xuất - tiêu thụ trọn gói; đồng thời, góp phần tái cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, cũng như kinh tế cả nước.

Chính quyền địa phương các cấp, các ngành thực hiện công tác qui hoạch phát triển các vùng, tiểu vùng chuyên canh, thâm canh nông nghiệp; tăng cường các cơ chế, chính sách hỗ trợ nông dân về khoa học kỹ thuật, khuyến nông,


khuyến lâm, về kinh tế nông thôn, về thông tin thị trường và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, hàng hóa làm ra. Thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; lựa chọn những sản phẩm chủ lực của Việt Nam, có thị trường tiêu thụ và có thể tổ chức theo chuỗi giá trị; cho vay tín dụng phải bám sát với tổ chức lại sản xuất thì mới hiệu quả. Trong chính sách tín dụng, ngoài các chính sách chung thì nên có những chương trình riêng cho những sản phẩm chủ lực. Ví dụ như cá tra, lúa, gạo, cà phê, với mỗi đối tượng như vậy có cách khác nhau trong quá trình sản xuất cũng như thị trường thì cần phải có chính sách riêng về tín dụng cho phù hợp. Trong thời gian tới, NHNo&PTNT Việt Nam nên gia tăng vốn đầu tư cho các dự án phát triển kinh doanh có sự cộng tác và điều phối đa ngành trong các hợp tác xã hoặc cụm liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị gia tăng. Song song đó các địa phương cũng có thể nghiên cứu phát triển mô hình hợp tác xã với các tập đoàn, tổng công ty hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn để cung ứng vốn, các dịch vụ ngân hàng cho nông dân, cho khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng khép kín, gia tăng đồng bộ chuỗi giá trị trong nông nghiệp từ khâu sản xuất, gieo trồng tới chế biến, tiêu thụ sản phẩm.

- Tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, phát triển và đa dạng hóa sản phẩm tín dụng và bảo hiểm nông nghiệp.

Trước hết, cần đơn giản hóa thủ tục vay vốn để người dân không phải mất thời gian đi làm lại các thủ tục tín dụng. Nghiên cứu điều chỉnh linh hoạt điều kiện cho vay phù hợp với điều kiện sản xuất nông nghiệp; cải thiện điều kiện tiếp cận vốn, kể cả điều kiện về tài sản thế chấp.

Đặc biệt, cần đa dạng hóa đối tượng và gói dịch vụ tín dụng nông nghiệp theo hướng mở rộng cho vay theo niên vụ cây trồng, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay tiêu dùng đối với hộ nông dân; chủ động điều chỉnh qui định để cơ chế tín dụng nông nghiệp lan tỏa đến hộ nông dân ở khu vực giáp ranh ven đô thị.

NHNN phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tư pháp cần nhanh chóng nghiên cứu, đề xuất sửa đổi những bất cập trong chính sách tín dụng nông nghiệp, có chính sách hỗ trợ về nguồn vốn và lãi suất hợp lý với các tổ chức tín dụng như NHNo&PTNT Việt Nam để giúp hộ nông dân, các thành phần

Xem tất cả 200 trang.

Ngày đăng: 29/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí